Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước được quỹ NAFOSTED tài trợ: “Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế tri thức: Khung khổ lý thuyết và trường hợp Việt Nam”.

01/02/2024 17:04


Mã số đề tài: 502.01-2018.26

Chủ nhiệm: PGS.TS. Nguyễn Thị Nguyệt

Kết quả: Nghiệm thu thành công.

1.      Nội dung nghiên cứu chính:

Nghiên cứu đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, gắn với vốn tri thức, vốn nhân lực và quá trình phát triển kinh tế tri thức, góp phần đạt được mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội đề ra là phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, nghiên cứu tổng quan so sánh sự khác biệt về mức độ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong các nền kinh tế có mức độ phát triển tri thức khác nhau. Nghiên cứu áp dụng cả phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng cho trường hợp Việt Nam, đại diện cho các nước đang phát triển có nền kinh tế chuyển đổi. Đề tài khai thác số liệu thống kê cấp quốc gia dưới dạng bảng dữ liệu cho phép phân tích, đánh giá sâu theo chuỗi thời gian, đối tượng doanh nghiệp, cùng với các mô hình, kỹ thuật định lượng dự kiến như mô hình ảnh hưởng cố định-ngẫu nhiên (fixed-random effects regression), phương pháp momen tổng quát (Generalized Method of Moments – GMM), với bộ nhân tố bao quát và toàn diện, nhằm đánh giá các yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam và sự thay đổi mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này dưới tác động của quá trình phát triển kinh tế tri thức. Kết quả nghiên cứu làm cơ sở đề xuất hàm ý chính sách và giải pháp nhằm giúp doanh nghiệp vừa thích ứng, vừa nắm bắt cơ hội để phát triển bền vững trong quá trình phát triển kinh tế tri thức ngày càng mạnh mẽ.

Một trong những kết quả nghiên cứu điển hình là đánh giá tác động của vốn trí tuệ (IC) đến hiệu quả tài chính doanh nghiệp của cả nước và trong ba ngành chính. Trong lĩnh vực dịch vụ ở một quốc gia mới nổi, trường hợp Việt Nam, nghiên cứu này có đóng góp vào lý luận và thực tiễn vì những lý do sau: (i) đây là nghiên cứu đầu tiên về tác động của IC đối với các công ty dịch vụ ở các mức độ thâm dụng tri thức, quy mô và quyền sở hữu khác nhau ở một quốc gia mới nổi, trường hợp Việt Nam; (ii) nghiên cứu thể hiện bằng chứng thực nghiệm chi tiết về các hoạt động dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ nghiên cứu và phát triển, tài chính và công nghệ đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của các quốc gia mới nổi; (iii) nghiên cứu xem xét tác động của vấn đề giới, vấn đề thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với chính phủ và người lao động, và mức độ tập trung của thị trường. Áp dụng mô hình GMM hệ thống hai bước cho giai đoạn 2005–2014, kết quả cho thấy các thành phần của vốn tri thức nhìn chung có tác động đáng kể đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Hiệu quả vốn nhân lực có tác động tích cực mạnh nhất trong khi hiệu quả sử dụng vốn có tác động mạnh thứ hai. Tác động của hiệu quả vốn cấu trúc là không nhất quán, tùy thuộc vào mức độ thâm dụng tri thức và các loại hoạt động dịch vụ. IC hiệu quả hơn đối với các tiểu ngành thâm dụng tri thức so với các tiểu ngành ít tri thức hơn. Hiệu quả của IC khác nhau giữa các mức thâm dụng tri thức, quy mô và quyền sở hữu, kết quả gợi ý rằng các nhà hoạch định chính sách và lãnh đạo doanh nghiệp nên thực hiện các giải pháp khác nhau tùy thuộc vào mức độ ảnh hưởng khác nhau của các thành phần vốn tri thức. Một trong những kết quả nghiên cứu điển hình khác cho thấy xu hướng toàn cầu của công nghệ số và đại dịch COVID-19 đã khiến tốc độ tăng trưởng của chuyển đổi số (DT) ổn định hơn bao giờ hết. Để triển khai lộ trình tiến hóa kỹ thuật số một cách phù hợp, các công cụ như Mô hình trưởng thành kỹ thuật số (DMM) có thể hữu ích vì chúng giúp các công ty đánh giá trạng thái ban đầu và lập kế hoạch lộ trình phát triển. Nghiên cứu đề xuất một DMM mới để hỗ trợ các công ty EI đến với Dịch vụ hóa phù hợp với cả phương pháp tiếp cận Hệ thống dịch vụ sản phẩm (PPS) và Thiết kế dịch vụ, với sự phát triển dựa trên phương pháp nghiên cứu khoa học thiết kế. 

Nghiên cứu này có những kết quả hoàn toàn mới, áp dụng tại đơn vị, có khả năng áp dụng tại Bộ Kế hoạch & Đầu tư và một số Bộ, ngành như, Bộ KHCN và Bộ GD&ĐT. Kết quả nghiên cứu được công bố ở ba bài tạp chí quốc gia và ba bài tạp chí quốc tế uy tín (ISI và SCOPUS). Việc thực hiện nghiên cứu yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế tri thức có đóng góp lớn về mặt lý luận, thực tiễn, có cách tiếp cận mới, phương pháp mới, giải pháp mới, chính sách mới đặc biệt về đầu tư KH,CN&ĐMST, phát triển vốn nhân lực để tăng trưởng nhanh và bền vững, đạt được mục tiêu mà chiến lược phát triển KT-XH giai đoạn 2021-2030 đề ra của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở khoa học và thực tiễn, tài liệu tham khảo hữu ích đối với việc hoạch định chính sách của các Bộ, ban ngành chuyên ngành trong quản lý các lĩnh vực về đầu tư, khoa học công nghệ, kinh tế số, nhân lực và năng suất lao động. Việc xác định được các yếu tố rào cản hiệu quả của phát triển tri thức, KH,CN &ĐMST trong việc nâng cao năng suất là cơ sở quan trọng đề xuất biện pháp chính sách tháo gỡ một cách hiệu quả trên cơ sở phối hợp đồng bộ giữa các Bộ, ban ngành, và các thành phần kinh tế của Việt Nam.

2. Kết quả nghiên cứu chính

Dưới góc độ học thuật, kết quả nghiên cứu của Đề tài đóng góp vào tổng quan nghiên cứu về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nói chung và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế tri thức nói riêng, các yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Đây là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích, có độ tin cậy cao cho các nhà nghiên cứu và các nhà tư vấn chính sách.

Dưới góc độ thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài đóng góp cho doanh nghiệp những gợi ý về giải pháp để thích ứng và nắm bắt cơ hội trong nền kinh tế tri thức, trước cách mạng công nghệ 4.0. Đề tài cũng đóng góp cơ sở khoa học cho các chương trình, chính sách hỗ trợ, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, chính sách phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo và đổi mới.

Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, các cơ sở đào tạo và mở ra hướng nghiên cứu sâu rộng hơn về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế tri thức.

Các kết quả chính của đề tài như sau:

2.1. Tạp chí quốc tế ISI/SCOPUS/khác

Công trình công bố trên tạp chí quốc tế gồm 01 công trình công bố trên tạp chí ISI (nhiều hơn đăng ký 01 bài, đề xuất thay thế cho 02 bài báo công bố trên tạp chí quốc tế khác), 02 công trình công bố trên tạp chí SCOPUS và 01 công trình công bố trên tạp chí quốc tế khác;

+ Bài đăng trên tạp chí ISI/SSCI (nhiều hơn đăng ký 01 bài): Nguyet Thi Nguyen (2023) The Impact of Intellectual Capital on Service Firm Financial Performance in Emerging Countries: The Case of Vietnam.

Nghiên cứu này đánh giá tác động của vốn trí tuệ (IC) đến hiệu quả tài chính doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ ở một quốc gia mới nổi, trường hợp Việt Nam. Nghiên cứu này có đóng góp vào lý luận và thực tiễn vì những lý do sau: (i) đây là nghiên cứu đầu tiên về tác động của IC đối với các công ty dịch vụ ở các mức độ thâm dụng tri thức, quy mô và quyền sở hữu khác nhau ở một quốc gia mới nổi, trường hợp Việt Nam; (ii) nghiên cứu thể hiện bằng chứng thực nghiệm chi tiết về các hoạt động dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ nghiên cứu và phát triển, tài chính và công nghệ đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của các quốc gia mới nổi; (iii) nghiên cứu xem xét tác động của vấn đề giới, vấn đề thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với chính phủ và người lao động, và mức độ tập trung của thị trường. Áp dụng mô hình GMM hệ thống hai bước cho giai đoạn 2005–2014, kết quả cho thấy các thành phần của vốn tri thức nhìn chung có tác động đáng kể đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Hiệu quả vốn nhân lực có tác động tích cực mạnh nhất trong khi hiệu quả sử dụng vốn có tác động mạnh thứ hai. Tác động của hiệu quả vốn cấu trúc là không nhất quán, tùy thuộc vào mức độ thâm dụng tri thức và các loại hoạt động dịch vụ. IC hiệu quả hơn đối với các tiểu ngành thâm dụng tri thức so với các tiểu ngành ít tri thức hơn. Hiệu quả của IC khác nhau giữa các mức thâm dụng tri thức, quy mô và quyền sở hữu, kết quả gợi ý rằng các nhà hoạch định chính sách và lãnh đạo doanh nghiệp nên thực hiện các giải pháp khác nhau tùy thuộc vào mức độ ảnh hưởng khác nhau của các thành phần vốn tri thức.

+ Bài đăng trên tạp chí SCOPUS: Nguyen Thi Nguyet (2022) SMEs survival and knowledge in emerging economies: evidence from vietnam.

Nghiên cứu này đánh giá ảnh hưởng của tri ​​thức đến sự tồn tại của các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ (SMEs) mới thành lập trong một nền kinh tế mới nổi như Việt Nam. Nghiên cứu này có đóng góp vào lý luận và thực tiễn với những nội dung sau. Dữ liệu bảng trích xuất từ ​​các cuộc điều tra quốc gia cho phép phân tích bộ biến số khá toàn diện trong giai đoạn 2005-2011 với mô hình Cox bán tham số. Nghiên cứu xem xét các yếu tố tri thức dưới sự kiểm soát của các yếu tố công nghiệp và đặc thù của công ty. Nghiên cứu đưa ra bằng chứng mạnh mẽ rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam được hưởng lợi rất nhiều từ phát triển tri thức. Các phát hiện gợi ý các công ty thúc đẩy năng suất lao động, giá trị gia tăng và tin học hóa. Có bằng chứng về việc lựa chọn thị trường dựa trên hiệu quả đầu tư. Bên cạnh đó, để sinh tồn các công ty cần chú ý cải thiện lợi nhuận trên doanh thu (ROS), đặc biệt là ở thị trường đang phát triển. DNNVV khởi nghiệp cần chuẩn bị đủ tiềm lực, không dựa chủ yếu vào đòn bẩy để tham gia thị trường vì sẽ dễ rơi vào rủi ro phá sản. Khởi nghiệp trong các ngành có tốc độ tăng trưởng cao, đặc biệt là ở giai đoạn đầu của vòng đời sẽ cần nhiều hỗ trợ hơn từ chính phủ. Những phát hiện này cung cấp bằng chứng cho việc hoàn thiện chính sách hỗ trợ DNNVV trong phát triển kinh tế tri thức trong giai đoạn tới.

+ Bài đăng trên tạp chí SCOPUS: Nguyen Thi Nguyet, Nghiem Thi Van (2023). Intellectual capital and financial performance of industrial firms in emerging countries: empirical evidence from Vietnam 

Mục đích: Nghiên cứu này điều tra tác động của vốn tri thức (IC) đến hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp công nghiệp tại Việt Nam. Nghiên cứu này bổ sung thêm bằng chứng về tác động của hiệu quả vốn tri thức và các thành phần của nó đối với một quốc gia mới nổi như Việt Nam.

Phương pháp và cách tiếp cận: Nghiên cứu đo lường hệ số giá trị gia tăng trí tuệ và áp dụng mô hình GMM hệ thống hai bước giai đoạn 2005-2014.

Kết quả: Kết quả cho thấy IC đóng góp đáng kể vào hiệu quả hoạt động của công ty công nghiệp. Hiệu quả hoạt động của công ty thử nghiệm công nghiệp bị ảnh hưởng tích cực bởi Hiệu quả vốn con người (HCE) và Hiệu quả sử dụng vốn (CEE). Nhìn chung, hiệu quả sử dụng vốn cơ cấu (SCE) có ảnh hưởng không đáng kể đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp công nghiệp. Tác động của hiệu quả IC phụ thuộc vào các yếu tố bên trong và bên ngoài. Tác động của hiệu quả vốn tri thức khác nhau giữa các mức cường độ kiến ​​thức. Nói chung, HCE quan trọng hơn CEE. Tác động của IC đối với kết quả của doanh nghiệp công nghiệp phụ thuộc vào mức độ thâm dụng tri thức. Tri thức càng chuyên sâu thì tác động của vốn tri thức càng mạnh. Chỉ những công ty thâm dụng tri thức cao mới được hưởng lợi từ cả ba thành phần của hiệu quả vốn tri thức. HCE và CEE hiệu quả nhất đối với các công ty có cường độ tri thức cao. SCE mạnh nhất đối với các công ty có cường độ tri thức thấp. Chỉ CEE mới đóng góp cho các doanh nghiệp công nghiệp ở mọi mức độ cường độ tri thức. HCE không đáng kể đối với các công ty có cường độ kiến ​​thức thấp, trong khi SCE không đáng kể đối với các công ty ở mức trung bình.

Hạn chế: Bài báo chỉ xem xét một biến đại diện cho hiệu quả tài chính của công ty, ROA. Các biến kiểm soát chỉ ở cấp độ công nghiệp, không phải ở cấp độ rộng hơn, chẳng hạn như cấp tỉnh hoặc cấp quốc gia.

Tính độc đáo/giá trị của nghiên cứu: Điều tra IC sẽ đóng góp vào tài liệu về mức độ đầu tư vào tài sản hữu hình và vô hình. Nó giúp các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và các nhà hoạch định chính sách hiểu được vai trò quan trọng của IC cũng như nền kinh tế tri thức, từ đó phân bổ lại nguồn lực trí tuệ một cách hợp lý. Các nhà lãnh đạo công ty và các nhà hoạch định chính sách nên tập trung vào HCE và CEE, những yếu tố thúc đẩy giá trị gia tăng đáng kể. Các phát hiện đề xuất các nhà lãnh đạo công ty nên đầu tư vào thành phần nào của vốn trí tuệ tương ứng với các mức độ khác nhau của cường độ tri thức.

+ Bài đăng trên tạp chí quốc tế khác: Pham Minh Hoang and Pham Thi Thanh Hong, Ngo Dien Hy, Nguyen Thi Nguyet (2023) A Digital Maturity Model for Electronics Manufacturing Firms toward Servitization with Integrated Approach 

Nội dung chính của nghiên cứu như sau: Xu hướng toàn cầu của công nghệ số và đại dịch COVID-19 đã khiến tốc độ tăng trưởng của chuyển đổi số (DT) ổn định hơn bao giờ hết. Để triển khai lộ trình tiến hóa kỹ thuật số một cách phù hợp, các công cụ như Mô hình trưởng thành kỹ thuật số (DMM) có thể hữu ích vì chúng giúp các công ty đánh giá trạng thái ban đầu và lập kế hoạch lộ trình phát triển. Nghiên cứu này trình bày một DMM mới để hỗ trợ các công ty EI đến với Dịch vụ hóa phù hợp với cả phương pháp tiếp cận Hệ thống dịch vụ sản phẩm (PPS) và Thiết kế dịch vụ, với sự phát triển dựa trên phương pháp nghiên cứu khoa học thiết kế. Đối với bước tiếp theo, nghiên cứu cho thấy DMM nên được đánh giá để đạt được kết quả xuất sắc cho công ty đương nhiệm và sau đó phổ biến cho nhiều công ty hơn để trở thành DMM tiêu chuẩn cho ngành.

+ Bài đăng trên tạp chí quốc tế khác: Nguyen Thi Nguyet, Dinh Lam Tan, Tran Thi Huyen Trang (2023) Firm financial performance and intellectual capital in R&D and consultancy services in lower-medium-income countries: the case of Vietnam 

Nghiên cứu này đánh giá tác động của vốn tri thức (IC) đến hiệu quả tài chính doanh nghiệp trong các dịch vụ nghiên cứu, phát triển và tư vấn tại một quốc gia có thu nhập trung bình thấp như Việt Nam. Áp dụng hệ số trí tuệ giá trị gia tăng với mô hình ngẫu nhiên và hiệu ứng cho giai đoạn 2005-2014, kết quả thực nghiệm cho thấy IC đóng góp đáng kể vào hiệu quả tài chính của doanh nghiệp. Trong đó hiệu quả vốn cơ cấu (SCE) có tác động cao nhất và Hiệu quả sử dụng vốn (CEE) có tác động thứ hai đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tác động của IC và các thành phần của nó phụ thuộc vào quy mô doanh nghiệp. SCE có tác động mạnh nhất đến hiệu quả tài chính của công ty đối với các công ty quy mô lớn và CEE có tác động mạnh nhất đối với các công ty có quy mô siêu nhỏ.

3.2. Tạp chí quốc gia

  03 Công trình công bố trên tạp chí quốc gia (nhiều hơn đăng ký 01 bài);

+ Nguyễn Thị Nguyệt, Phạm Minh Hoàng (2020), Kinh tế tri thức và doanh nghiệp: Thách thức về tài chính đối với các doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi số, Nghiên cứu kinh tế, số 2 (501)

Kết quả chính của nghiên cứu: nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó quá trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trở thành động lực cho chính sự tăng trưởng, với đặc trưng của nền kinh tế tri thức là việc ứng dụng công nghệ thông tin sâu rộng như nền tảng công nghệ số. Nghiên cứu làm rõ các khía cạnh của chuyển đổi số doanh nghiệp cũng như các thách thức về mặt tài chính mà các doanh nghiệp phải đối diện trong bối cảnh chuyển đổi số. Kết quả nghiên cứu cũng gợi ý cho các doanh nghiệp nên áp dụng số hóa, chuyển đổi từng bước, quy mô nhỏ, xem xét các sản phẩm phù hợp với quy mô, đa dạng hóa nguồn tài chính, đồng thời chính sách công cũng cần đổi mới, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số

+ Nguyễn Thị Nguyệt, Trần Thị Huyền Trang (2020), Kinh tế tri thức và sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam, Nghiên cứu kinh tế, số 3 (502)

Nghiên cứu phân tích tác động của kinh tế tri thức đối với sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp dưới góc độ định vị công nghiệp, trình độ công nghệ, ứng dụng công nghệ, công trình và sản phẩm nghiên cứu, năng lực cạnh tranh. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng sự phát triển của kinh tế tri thức có tác động đến yếu tố khoa học công nghệ và sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tận dụng hiệu quả những lợi ích của kinh tế tri thức mang lại trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam.

+ Nguyễn Thị Nguyệt, Phạm Minh Hoàng, Phạm Thị Thanh Hồng (2020), Lãnh đạo số- Nhân tố thúc đẩy chuyển đổi số doanh nghiệp trong nền kinh tế tri thức, Nghiên cứu kinh tế, số 8 (507) 

Nghiên cứu làm rõ mục tiêu chính của chuyển đổi số doanh nghiệp là tăng cường mức độ trưởng thành số thông qua quá trình liên tục cải tiến các hệ sinh thái số và lãnh đạo số là một trong những yếu tố thúc đẩy quan trọng giúp quá trình chuyển đổi số của doanh nghiệp được thuận lợi. Kết quả nghiên cứu gợi ý cho các doanh nghiệp có chiến lược triển khai lãnh đạo số linh hoạt thông qua triển khai các mô hình lãnh đạo số phù hợp với từng giai đoạn chuyển đổi, với mức độ trưởng thành số và với khoảng trống lãnh đạo của doanh nghiệp. Đồng thời chính sách công cũng cần đổi mới để hỗ trợ, nâng cao nhận thức và nguồn cũng lãnh đạo chuyển đổi số cho các doanh nghiệp         

3.3. Sách chuyên khảo

01 Sách chuyên khảo: Nguyễn Thị Nguyệt (đồng chủ biên) và các tác giả (2021), Đổi mới đầu tư khoa học và công nghệ tại doanh nghiệp Việt Nam gắn với phát triển kinh tế tri thức, NXB Khoa học và Kỹ thuật

Cuốn sách “Đổi mới đầu tư khoa học và công nghệ tại doanh nghiệp Việt Nam gắn với phát triển kinh tế tri thức” đề cập đến những vấn đề cơ bản của cơ sở lý luận và thực tiễn về đầu tư khoa học và công nghệ trong doanh nghiệp, đánh giá thực trạng đầu tư khoa học và công nghệ tại doanh nghiệp Việt Nam gắn với phát triển kinh tế tri thức, chỉ rõ những nguyên nhân, hạn chế của hoạt động đổi mới khoa học và công nghệ, từ đó xác định các yếu tố quyết định đến hiệu quả của hoạt động này. 

Trong nghiên cứu này đầu tư khoa học và công nghệ là đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ, đó chính là nền tảng của tri thức. Đổi mới đầu tư khoa học và công nghệ để doanh nghiệp phát triển bền vững dựa trên cơ sở đánh giá thực trạng đầu tư khoa học và công nghệ của doanh nghiệp để tìm giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư về hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường.  

Trên cơ sở khung lý thuyết và thực tiễn kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu đã đánh giá thực trạng đầu tư khoa học và công nghệ của doanh nghiệp. Kết quả cho thấy, bên cạnh nỗ lực và thay đổi nhận thức về vai trò của khoa học và công nghệ, đầu tư khoa học và công nghệ tại doanh nghiệp  còn nhiều hạn chế. Nhận thức chưa đầy đủ về sự cấp thiết về đầu tư, đổi mới đầu tư khoa học và công nghệ và đầu tư khoa học và công nghệ để phát triển bền vững. Quy mô đầu tư chưa thỏa đáng, thiếu kế hoạch tài chính cho đầu tư, không trích hoặc tỷ lệ trích quỹ khoa học và công nghệ thấp, nguồn đầu tư thiếu bền vững. Hình thức đầu tư chủ yếu ngắn, trung hạn và tỷ lệ đáng kể không sử dụng hợp đồng do đó rủi ro đầu tư cao; hợp tác liên kết yếu và thiếu chủ động linh hoạt, chủ yếu khối doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp tư nhân linh hoạt hơn khối doanh nghiệp nhà nước, hợp tác vẫn chủ yếu với các nhà cung cấp, đối tác trong nước, chưa tận dụng được cơ hội hợp tác quốc tế từ hội nhập. Lĩnh vực đầu tư cho nghiên cứu và phát triển còn thấp, chủ yếu cho mua và nhận chuyển giao, song lại chủ yếu là công nghệ chỉ dừng lại mức độ hiện đại trong nước, ít đầu tư công nghệ hiện đại, công nghệ xanh thân thiện với môi trường; thiếu đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ, đầu tư còn dàn trải thiếu hiệu quả dẫn đến vừa thiếu vừa yếu về năng lực; thiếu đầu tư cho cơ sở hạ tầng, hạn chế điều kiện triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ. Quản lý đầu tư khoa học và công nghệ chưa được quan tâm, thiếu bài bản, kế hoạch, chiến lược, đánh giá thông tin, dẫn đến đầu tư khoa học và công nghệ còn lúng túng, xử lý rủi ro thiếu linh hoạt, đầu tư kém hiệu quả, kể cả mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Bên cạnh đó còn hạn chế về trình độ khoa học và công nghệ, năng lực hấp thụ công nghệ, nhân lực khoa học và công nghệ và nguồn vốn cho đầu tư khoa học và công nghệ, cơ sở hạ tầng khoa học và công nghệ, bảo hộ sở hữu trí tuệ. Các hạn chế này khác biệt giữa doanh nghiệp các ngành khác nhau ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, việc thực thi các cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiến hành các hoạt động đổi mới công nghệ vẫn còn nhiều hạn chế. Chính sách chưa tạo ra động lực gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý của doanh nghiệp. Hiện tượng phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế vẫn còn tồn tại trong khi thực hiện chính sách. Mức độ bao phủ của chính sách và khả năng tiếp cận chính sách của doanh nghiệp tư nhân thấp, tỷ lệ doanh nghiệp tham gia các chương trình hỗ trợ và thực hiện đổi mới công nghệ còn thấp. Còn một khoảng cách lớn giữa các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp với khả năng hấp thụ của doanh nghiệp vì các doanh nghiệp không đủ nội lực. Các chủ trương và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp còn yếu về chất lượng, tính hiệu lực và hiệu quả trong quá trình thực thi còn nhiều hạn chế, chưa mang lại giá trị hay lợi ích cụ thể cho doanh nghiệp. Vai trò hỗ trợ, khuyến khích, cầu nối, huy động các nguồn lực cho đổi mới, sáng tạo, thu hút FDI thực hiện chuyển giao công nghệ của nhà nước chưa thực sự phát huy.

Trước những hạn chế và nguyên nhân, nghiên cứu đưa ra quan điểm, định hướng và đề xuất cần thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp cấp độ doanh nghiệp, ngành và chính phủ. Các nhóm giải pháp cấp độ doanh nghiệp và ngành tập trung về đổi mới đầu tư khoa học và công nghệ, về nhận thức đầu tư, quy mô, phương thức, lĩnh vực, và quản lý đầu tư. Giải pháp đối với thành phố  bao gồm giải pháp về hỗ trợ và tài trợ doanh nghiệp  đầu tư khoa học và công nghệ; hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp hợp tác đầu tư khoa học và công nghệ; về bảo vệ sở hữu trí tuệ và hạn chế rủi ro đầu tư khoa học và công nghệ tại doanh nghiệp. 

Như vậy, đầu tư khoa học và công nghệ trong các doanh nghiệp  còn nhiều hạn chế. Từ lợi thế cũng như thách thức của phát triển trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, xuất phát từ những đặc điểm của doanh nghiệp , nghiên cứu này đã tập trung vào vấn đề, nguyên nhân, và giải pháp đổi mới đầu tư khoa học và công nghệ cho doanh nghiệp gắn với phát triển kinh tế tri thức. Với định hướng tăng trưởng theo chiều sâu, đổi mới nền kinh tế hướng tới phát triển bền vững, cần phối hợp đồng bộ và hệ thống các giải pháp, lấy con người trong mối quan hệ hài hòa giữa kinh tế, xã hội và môi trường làm trung tâm. Giải pháp cần đồng bộ, đặc biệt đồng hành cùng nỗ lực quyết tâm của doanh nghiệp, chính phủ các cấp ngành, và các định chế tài chính, tổ chức khoa học và công nghệ.

Nghiên cứu còn một số hạn chế, còn dư địa cho những nghiên cứu tiếp theo, như về các chỉ tiêu đánh giá về hiệu quả xã hội và môi trường của đầu tư khoa học và công nghệ tại doanh nghiệp , về thí điểm áp dụng bộ chỉ số đánh giá hiệu quả đầu tư...