Thái Nguyên quyết tâm giảm nghèo để không ai bị bỏ lại phía sau
06/11/2025 13:49
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 đã được tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn trước đây tích cực triển khai và đạt được những kết quả to lớn, trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống cho người nghèo, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn. Thái Nguyên đang phấn đấu để đến cuối năm 2025 tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 4,65% và tỉnh đặt chỉ tiêu tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2026 - 2030) duy trì mức giảm 1 - 1,5 điểm%/năm giai đoạn 2026 - 2030.

Cây chè Shan tuyết giúp người dân xã Yên Bình có thêm sinh kế, tăng thu nhập, nâng cao đời sống
(Nguồn: baothainguyen.vn)
Thực trạng giảm nghèo trước sáp nhập tỉnh
Kết quả đạt được khả quan
Những năm qua, công tác giảm nghèo luôn được cấp ủy, chính quyền các cấp tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn (cũ) quan tâm, thực hiện hiệu quả. Trong đó, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 đã được tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn (cũ) thực hiện tại các địa phương nghèo, vùng khó khăn, tập trung vào 7 dự án, gồm: (1) Hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội các huyện nghèo; (2) Đa dạng hóa sinh kế, phát triển mô hình giảm nghèo; (3) Hỗ trợ phát triển sản xuất, cải thiện dinh dưỡng; (4) Phát triển giáo dục nghề nghiệp, việc làm bền vững; (5) Hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn các huyện nghèo; (6) Truyền thông và giảm nghèo về thông tin; (7) Nâng cao năng lực và giám sát, đánh giá Chương trình. Kết quả thực hiện Chương trình đã góp phần vào thành tựu chung trong giảm nghèo của 2 địa phương trong những năm qua. Dưới đây là một số thành tựu đã đạt được của từng địa phương:
Đối với Thái Nguyên:
Để giảm nghèo bền vững, các cấp ủy Đảng của tỉnh Thái Nguyên đã có cam kết chính trị cao, trong đó Chính quyền tỉnh thành lập Ban Chỉ đạo, tổ giúp việc, hội đồng thẩm định để giám sát, điều phối chương trình giảm nghèo. Đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền, vận động cộng đồng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể vào cuộc mạnh mẽ để “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Để có nguồn lực thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Thái Nguyên đã huy động được gần 3.594 tỷ đồng để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trong giai đoạn 2021 - 2024. Trong đó 1.301,1 tỷ đồng từ ngân sách trung ương, hơn 353 tỷ ngân sách địa phương, 1.578 tỷ đồng vốn tín dụng, hơn 296,4 tỷ đồng huy động từ người dân và cộng đồng.
Nhờ cách làm sáng tạo trong mô hình giảm nghèo sáng tạo, hướng tới sinh kế bền vững, tỉnh Thái Nguyên đã và đang triển khai nhiều dự án sinh kế, hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh cho hộ nghèo, cận nghèo. Tính đến tháng 6/2025, Thái Nguyên đã triển khai thực hiện 642 dự án hỗ trợ phát triển sản xuất với sự tham gia của 13.330 hộ, trong đó có 6.811 hộ nghèo, 3.791 hộ cận nghèo và 2.728 hộ mới thoát nghèo và hộ khác tham gia dự án. Đồng thời, 100% người có khả năng lao động, có nhu cầu thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn huyện nghèo (cũ) được hỗ trợ nâng cao năng lực sản xuất nông, lâm nghiệp.
Bên cạnh đó, tỉnh Thái Nguyên cũng đã tập trung thực hiện chương trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo và cận nghèo thông qua nhiều hoạt động như hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát cho 7.406 hộ, với tổng kinh phí khoảng 30,39 tỷ đồng phân bổ cho một số huyện. Giai đoạn 2021 - 2024, tỉnh đã hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát cho khoảng 7.406 hộ nghèo và cận nghèo, giúp người nghèo ổn định chỗ ở.
Hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn của tỉnh cũng có bước phát triển toàn diện. Tính đến cuối tháng 6/2025, tỉnh có trên 2.200 km đường giao thông nông thôn, trên 350 công trình giáo dục, 109 trung tâm văn hóa xã, gần 600 nhà văn hóa xóm, hàng trăm công trình điện, thủy lợi, y tế được đầu tư xây dựng đồng bộ. Điều này giúp giảm thiếu hụt tối thiểu cho người dân - đây là nền tảng để người dân tham gia sinh kế bền vững.
Nhằm kết nối việc làm cho người dân nông thôn, Thái Nguyên đẩy mạnh triển khai Chương trình đào tạo nghề nông nghiệp, kỹ năng quản trị hợp tác xã, xúc tiến thương mại và đào tạo lao động đi làm trong các khu công nghiệp, giúp đa dạng hóa nguồn thu nhập cho lao động nông thôn. Tính đến cuối năm 2024, tỉnh Thái Nguyên xây dựng và triển khai 10 mô hình điểm về đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân.
Bảng 1. Hộ nghèo và cận nghèo theo chuẩn đa chiều của tỉnh Thái Nguyên
| Năm | Tỷ lệ nghèo đa chiều | Tổng số hộ nghèo và hộ cận nghèo | Tỷ lệ hộ nghèo | Hộ nghèo | Tỷ lệ hộ cận nghèo | Hộ cận nghèo |
| (%) | (Hộ) | (%) | (Hộ) | (%) | (Hộ) | |
| 2023 | 5,84 | 19.706 | 3,02 | 10.190 | 2,82 | 9.516 |
| 2024 | 4,34 | 14.742 | 2,04 | 6.938 | 2,30 | 7.804 |
Nguồn: Kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo các năm 2023 - 2024 theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 - 2025
Nhờ những nỗ lực không ngừng nghỉ, tỷ lệ nghèo đa chiều, hộ nghèo và hộ cận nghèo của tỉnh Thái Nguyên (cũ) năm 2024 đều giảm đáng kể so với năm 2023, cụ thể là: Tỷ lệ nghèo đa chiều năm 2023 từ 5,84% đã giảm xuống còn 4,34% năm 2024; tỷ lệ hệ nghèo năm 2023 từ 3,02% đã giảm xuống còn 2,04%; tỷ lệ hộ cận nghèo năm 2023 từ 2,82% đã giảm xuống còn 2,30% năm 2024 (Bảng 1). Kết quả này cho thấy sự nỗ lực và quyết tâm của chính quyền và người dân tỉnh Thái Nguyên (cũ) trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững.
Đối với Bắc Kạn:
Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh Bắc Kạn đã chỉ đạo các cấp thực hiện tốt các chính sách giảm nghèo được thực hiện khá toàn diện, nhất là chính sách tín dụng ưu đãi, các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất tạo sinh kế bền vững cho người dân và hoạt động đào tạo nghề..., giúp triển khai khai tốt công tác giảm nghèo.
Trên cơ sở nguồn lực nhà nước và xã hội hóa, Bắc Kạn đã tập trung triển khai đầu tư 32 công trình hạ tầng tại các huyện nghèo; hỗ trợ thực hiện khoảng 80 dự án, mô hình giảm nghèo; triển khai khoảng 40 mô hình, dự án phát triển sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp; hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; hỗ trợ khởi nghiệp và tạo việc làm cho người lao động; đào tạo nghề cho người lao động thuộc hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo.
Xác định đầu tư hạ tầng thiết yếu cho các huyện nghèo, xã nghèo tạo điều kiện cho công tác giảm nghèo nhanh, tỉnh Bắc Kạn đã triển khai 56 công trình giao thông, thủy lợi, y tế, văn hóa, giáo dục… với hàng nghìn hộ hưởng lợi, trong đó nhiều hộ nghèo, cận nghèo. Đến hết năm 2024, tỉnh Bắc Kạn đã có 1.286,76 km trong tổng số 1.527,18 km đường xã được nhựa hóa, bê tông hóa (chiếm 84,26%); có 1.216,54 km trong tổng số 1.874,076 km đường liên thôn được cứng hóa (chiếm 64,91%); có 659,14 km trong tổng số 1.445,359 km đường ngõ, xóm được cứng hóa (chiếm 45,6%); 1.199,92 km trong tổng số 2.150,123 km kênh mương được kiên cố hóa (chiếm 55,8%); có 98,33 km trong tổng số 664,15 km đường trục chính nội đồng được cứng hóa (chiếm 14,8%)...
Cùng với đó, hệ thống thiết chế nhà văn hóa xã, thôn cơ bản được lắp đặt các trang thiết bị phục vụ sinh hoạt cộng đồng, bảo đảm thiết thực, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần cho Nhân dân. Toàn tỉnh có 79/95 xã có nhà văn hóa, trong đó có 66/71 nhà văn hóa xã đạt chuẩn, 653/1.060 nhà văn hóa thôn đạt chuẩn.
Ngoài ra, hạ tầng thông tin truyền thông từng nước được tỉnh phủ sóng rộng rãi, giúp người dân nông thôn có điều kiện tiếp cận thông tin trong sản xuất và đời sống. Đến tháng 6/2025, có 100% xã, phường, thị trấn và khoảng 97% (1.250/1.292) thôn, bản được phủ sóng di động; 100% đơn vị, địa phương được kết nối mạng truyền số liệu chuyên dùng và được chuẩn hóa kết nối giám sát 4 cấp hành chính; số thuê bao điện thoại trên địa bàn tỉnh đạt 355.492 thuê bao; số thuê bao điện thoại thông minh (smartphone) đạt 293.080 thuê bao (chiếm 89,9% dân số).
Đáng chú ý, tỉnh cũng đã tổ chức thành công 152 lớp đào tạo nghề nghiệp cho 4.776 người, trong đó 2.218 lao động hộ nghèo, 841 lao động hộ cận nghèo và 270 lao động hộ mới thoát nghèo. Kết quả khảo sát cho thấy, khoảng 70% người sau đào tạo tự tạo việc làm hoặc cải thiện năng suất tại nghề cũ.
Bảng 2. Hộ nghèo và cận nghèo theo chuẩn đa chiều của tỉnh Bắc Kạn
| Năm | Tỷ lệ nghèo đa chiều | Tổng số hộ nghèo và hộ cận nghèo | Tỷ lệ hộ nghèo | Hộ nghèo | Tỷ lệ hộ cận nghèo | Hộ cận nghèo |
| (%) | (Hộ) | (%) | (Hộ) | (%) | (Hộ) | |
| 2023 | 31,05 | 25.559 | 21,95 | 18.067 | 9,00 | 7.492 |
| 2024 | 28,72 | 23.801 | 19,46 | 16.123 | 9,27 | 7.678 |
Nguồn: Kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo các năm 2023 - 2024 theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 - 2025
Kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo các năm 2023 - 2024 theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 - 2025 cho thấy, tỷ lệ nghèo đa chiều, hộ nghèo và hộ cận nghèo của tỉnh Bắc Kạn (cũ) năm 2024 đều giảm đáng kể so với năm 2023, cụ thể là: Tỷ lệ nghèo đa chiều năm 2023 từ 31,05% đã giảm xuống còn 28,72% năm 2024; tỷ lệ hệ nghèo năm 2023 từ 21,95% đã giảm xuống còn 19,46%; tuy nhiên, tỷ lệ hộ cận nghèo năm 2023 từ 9% lại tăng nhẹ lên 9,27% năm 2024 (Bảng 2).
Nhờ kết quả trong công tác giảm nghèo, người nghèo của tỉnh đã được tiếp cận ngày càng đầy đủ hơn các dịch vụ xã hội cơ bản; được đào tạo, định hướng nghề nghiệp gắn với thực tiễn sản xuất, tạo sinh kế bền vững. Theo thống kê, tính đến cuối tháng 6/2025, toàn tỉnh có hơn 6.000 lượt hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo được tham gia các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất trong các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi; hơn 12.000 lượt người được cung cấp thông tin, tư vấn, hỗ trợ việc làm; 1.729 hộ nghèo, cận nghèo được hỗ trợ xây mới, sửa chữa nhà ở; gần 15.000 lượt hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo được vay vốn tín dụng ưu đãi để phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh, làm nhà ở, đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; 100% đối tượng thuộc diện chính sách xã hội được cấp thẻ bảo hiểm y tế; hàng chục nghìn lượt người nghèo, cận nghèo được trợ giúp pháp lý; hàng trăm nghìn học sinh con hộ nghèo, cận nghèo được hỗ trợ miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập... Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 không chỉ góp phần cải thiện vật chất cho người dân, mà còn tạo ra luồng sinh khí mới cho sự phát triển toàn diện của tỉnh Bắc Kạn, khẳng định tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Đạt được kết quả trên là do tỉnh Bắc Kạn đã tập trung lồng ghép hiệu quả các nguồn lực (ngân sách, tín dụng, cộng đồng). Chú trọng sinh kế và cơ sở hạ tầng vùng khó khăn. Có cam kết chính trị cao và cơ chế tổ chức triển khai rõ ràng. Thông qua các hoạt động truyền thông, tỉnh đã phát sóng hơn 145 chương trình phát thanh, 75 chương trình truyền hình đến 37 lớp tập huấn cho hơn 5.200 cán bộ cơ sở, có thể thấy công tác giảm nghèo đã được triển khai bài bản, minh bạch và hiệu quả.
Hạn chế, nguyên nhân
Mặc dù đạt nhiều thành tựu, công tác giảm nghèo ở Thái Nguyên và Bắc Kạn (cũ) vẫn còn những hạn chế nhất định: (1) Đối với tỉnh Thái Nguyên: Giảm nghèo chưa đồng đều giữa khu vực, nhóm dân cư; mặc dù có đầu tư, nhưng nhiều vùng khó khăn vẫn còn hạn chế về hạ tầng đường xá, giao thông, điện, nước sạch, y tế và trường học - điều này ảnh hưởng tới khả năng phát triển sinh kế của người dân; một số hộ nghèo, đặc biệt ở vùng dân tộc thiểu số, trình độ học vấn, kỹ năng nghề còn thấp, thiếu khả năng tiếp thu kỹ thuật mới, quản lý kinh tế gia đình; (2) Đối với tỉnh Bắc Kạn: Các huyện đặc biệt khó khăn vẫn còn tỷ lệ nghèo rất cao (mặc dù đã giảm), nghĩa là khoảng cách vùng miền vẫn tồn tại; khả năng thoát nghèo bền vững ở vùng sâu vùng xa yếu hơn; tính bền vững của sinh kế còn hạn chế: nhiều hộ thoát nghèo còn dựa vào trợ giúp, chưa hình thành chuỗi giá trị/kinh tế hộ bền vững...
Nguyên nhân của han chế trên là do tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn (cũ) có một phần lớn diện tích là đồi núi, dốc, đất đai manh mún và thường xuyên chịu tác động của thiên tai (mưa lớn, sạt lở, lũ quét cục bộ). Điều này hạn chế năng suất nông nghiệp, thu hẹp khả năng mở rộng sản xuất quy mô lớn và làm tăng chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng. Cùng với đó, một bộ phận lớn hộ nghèo thuộc nhóm lao động nông nghiệp truyền thống, kỹ năng nghề thấp, ít cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp. Nhiều hộ nghèo thiếu cả vốn ban đầu và tài sản bảo đảm, nên rất khó vay vốn sản xuất hoặc đầu tư chuyển đổi nghề. Ngoài ra, sản xuất nông nghiệp, đặc biệt ở vùng khó khăn, còn phụ thuộc vào phương thức truyền thống, thiếu liên kết chuỗi, thiếu cơ giới hóa, thiếu đầu ra ổn định.
Mục tiêu năm 2025 và giai đoạn 2026 - 2030
Sau khi sáp nhập và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, cấp ủy, chính quyền các cấp của tỉnh Thái Nguyên luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt công tác giảm nghèo; trong đó, ngày 15/10/2025, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-UBND về việc tăng cường chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh đến năm 2030. Theo đó, Thái Nguyên phấn đấu đến cuối năm 2025 giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 4,65% và duy trì mức giảm 1 - 1,5 điểm%/năm giai đoạn 2026 - 2030.
Để góp phần đạt được mục tiêu năm 2025, bên cạnh việc tăng cường hỗ trợ sinh kế, Thái Nguyên cũng đang tập trung giải quyết mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản. Trong đó, việc làm để nâng cao thu nhập được cho là trụ cột quan trọng nhất và cấp thiết nhất. Dự kiến đến hết năm 2025, tỉnh sẽ hỗ trợ kết nối việc làm cho khoảng 8.500 lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo. Ngoài ra, cũng có khoảng 2.000 lao động của các huyện nghèo cũ được thụ hưởng chương trình đào tạo nghề, trong đó có 1.800 lao động được đào tạo để chuẩn bị đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Giải pháp
Dưới đây là một số giải pháp chủ yếu góp phần hiện thực hóa các mục tiêu nêu trên mà các cơ quan, ban ngành tỉnh Thái Nguyên có thể tham khảo:
Một là, trước hết, tỉnh cần xác định giảm nghèo không chỉ là hỗ trợ trước mắt mà là quá trình nâng cao năng lực tự vươn lên của người dân, đặc biệt tại khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và những nơi bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu hoặc khai thác tài nguyên. Muốn làm được điều này, Thái Nguyên cần xây dựng một cơ sở dữ liệu nghèo đa chiều đầy đủ, chính xác và cập nhật thường xuyên, giúp dễ dàng phân loại nhóm hộ, xác định đúng nhu cầu và thiết kế các gói hỗ trợ giảm nghèo phù hợp, tránh tình trạng hỗ trợ dàn trải hoặc trùng lặp trong đầu tư.
Hai là, để phát triển sinh kế có giá trị gia tăng, với lợi thế đặc thù của Thái Nguyên như cây chè, chăn nuôi quy mô hộ, cùng các khu công nghiệp và cơ sở chế biến đang mở rộng, tỉnh có thể tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị, giúp người dân gắn sản phẩm của mình với thị trường. Bên cạnh đó, tỉnh cần củng cố các hợp tác xã, tổ nhóm sản xuất và mô hình doanh nghiệp đồng hành cùng nông dân. Khi người dân tham gia vào những mô hình có hợp đồng bao tiêu, được hỗ trợ kỹ thuật, cơ giới hóa và tiếp cận vốn, chuỗi giá trị sẽ vận hành trơn tru hơn, tạo thu nhập ổn định và giảm rủi ro bị rơi trở lại nghèo.
Ba là, cùng với phát triển sinh kế nông nghiệp, tỉnh cần đẩy mạnh tạo việc làm phi nông nghiệp thông qua đào tạo nghề theo nhu cầu doanh nghiệp và thị trường lao động. Việc đào tạo phải gắn với cam kết tuyển dụng, đảm bảo người lao động - nhất là thanh niên nghèo và lao động dân tộc thiểu số - có thể tiếp cận việc làm trong các khu công nghiệp, cơ sở chế biến hoặc dịch vụ địa phương. Khi nguồn lao động được dịch chuyển hợp lý, thu nhập hộ gia đình sẽ ổn định và giảm áp lực lên đất đai canh tác vốn hạn chế. Để hỗ trợ quá trình này, tín dụng ưu đãi và tài chính vi mô phải được thiết kế linh hoạt, tạo điều kiện cho hộ nghèo, hộ cận nghèo có vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh.
Bốn là, giảm nghèo hiệu quả cần một tầng an sinh xã hội bền vững. Điều này bao gồm việc bảo đảm mọi hộ nghèo được tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, nước sạch, thông tin và có nhà ở an toàn. Khi những nền tảng này được củng cố, năng lực lao động của người dân sẽ tăng lên và họ có điều kiện tham gia vào các mô hình sinh kế. Hạ tầng thiết yếu như đường giao thông, điện, internet hoặc công trình thủy lợi phải được ưu tiên đầu tư tại những nơi có khả năng tạo chuyển biến lớn về thu nhập và kết nối thị trường, giúp không chỉ mang lại lợi ích trực tiếp cho người dân mà còn thu hút doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng tại vùng khó khăn.
Năm là, với đặc thù của tỉnh có nhiều khu vực chịu tác động của khai thác tài nguyên khoáng sản, gây ô nhiễm cục bộ và nguy cơ thiên tai, tỉnh Thái Nguyên cần có chiến lược phục hồi môi trường, chuyển đổi sinh kế và hỗ trợ kỹ thuật cho những hộ bị ảnh hưởng, giúp các mô hình sinh kế bền vững hơn và người dân giảm phụ thuộc vào khai thác tài nguyên.
Sáu là, tỉnh cần hình thành một bộ máy quản lý giảm nghèo liên ngành, hoạt động theo phương thức “một cửa” để tiếp nhận, thẩm định và triển khai các chương trình, dự án. Đồng thời, các nguồn lực từ ngân sách nhà nước, chương trình mục tiêu quốc gia, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và người dân cần được huy động một cách minh bạch và phân bổ hợp lý.
Bảy là, việc giám sát, đánh giá định kỳ thông qua hệ thống số hóa giúp tỉnh dễ dàng theo dõi tiến độ, hiệu quả và điều chỉnh chính sách giảm nghèo khi cần thiết. Đối với các mô hình sinh kế có hiệu quả, tỉnh có thể nhân rộng ngay; nếu một hoạt động không mang lại kết quả, cần tạm dừng và điều chỉnh để tránh lãng phí nguồn lực.
TS. Ngô Xuân Thanh
Tài liệu tham khảo
1. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
2. Cổng Thông thông tin điện tử Bộ Khoa học và Công nghệ (2025), Từ thách thức đến hành động: Quyết tâm giảm nghèo bền vững ở Thái Nguyên.
3. Báo điện tử Bắc Kạn (2025), Bắc Kạn ghi dấu ấn giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025.
4. Báo điện tử Kiểm toán Nhà nước (2025), Bắc Kạn: Giảm nghèo bền vững góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội địa phương.
5. Báo Nhân dân điện tử (2025), Đa dạng hóa mô hình giảm nghèo ở Bắc Kạn.
6. Báo điện tử Dân tộc và Tôn giáo (2025), Thái Nguyên: Tỷ lệ hộ nghèo giảm theo hướng bền vững.