Kinh tế 10 tháng đầu năm và giải pháp thực hiện mục tiêu tăng trưởng cả năm 2025
11/11/2025 09:23
Trước những biến động mạnh từ bối cảnh thế giới, tình hình kinh tế Việt Nam 10 tháng đầu năm 2025 vẫn tiếp tục duy trì đà tăng trưởng tích cực nhờ tín dụng bứt tốc, đầu tư công tăng cao và các chính sách được khơi thông, tạo nền tảng vững chắc để hoàn thành mục tiêu cả năm 2025. Tuy nhiên, để tiến sát mục tiêu trên 8% cho cả năm, quý IV/2025 đòi hỏi cần những nỗ lực vượt bậc với trọng tâm là thúc đẩy giải ngân đầu tư công, kích thích tiêu dùng trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu, giải quyết các rào cản của doanh nghiệp và thúc đẩy mạnh mẽ các mô hình kinh tế mới.
1. Diễn biến kinh tế thế giới trong tháng 10 năm 2025 và tác động đến Việt Nam
Căng thẳng thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc gia tăng trở lại
Trong tháng 10/2025, căng thẳng Hoa Kỳ - Trung Quốc bất ngờ tăng trở lại khi Trung Quốc tăng cường kiểm soát xuất khẩu đất hiếm và Tổng thống Trump tuyên bố áp thuế quan 100% lên hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, làm gia tăng mức độ bất ổn trong triển vọng tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy nhu cầu mua các kim loại quý như kênh trú ẩn an toàn nhằm phòng ngừa lạm phát tăng trên thị trường quốc tế. Giá vàng thế giới đã liên tiếp lập những mốc kỷ lục mới, đạt 4.237 USD/ounce vào ngày 16/10/2025, đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử vượt mốc 4.200 USD/ounce. Sự biến động mạnh của thị trường tài chính và giá vàng toàn cầu có thể ảnh hưởng tiêu cực đến dòng vốn ngoại ở Việt Nam, do niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường toàn cầu bị suy giảm. Đồng thời, giá vàng thế giới liên tiếp “phá vỡ kỷ lục” cũng trực tiếp tác động đến thị trường vàng trong nước và tâm lý của người dân, gây ra những thách thức trong việc quản lý vĩ mô. Tính đến ngày 16/10/2025, giá vàng trong nước đã đạt đỉnh ở ngưỡng 147,1 - 152,3 triệu đồng/lượng.
Kinh tế thế giới tiếp tục xu hướng phục hồi, song nguy cơ giảm tốc vẫn hiện hữu
Trong tháng 10/2025, một số tổ chức quốc tế đã nâng dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2025 như: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), trong Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới (WEO, 10/2025) đã dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu đạt 3,2%, tăng nhẹ so với dự báo 3% đưa ra hồi tháng 7/2025, do điều kiện tài chính và cú sốc thuế quan ít nghiêm trọng hơn dự kiến; Tổ chức thương mại thế giới (WTO) nâng dự báo tăng trưởng thương mại toàn cầu năm 2025 lên 2,4% (từ 0,9% đưa ra hồi tháng 8/2025), nhờ vào sự gia tăng mạnh mẽ của khối lượng thương mại trong nửa đầu năm. Tuy nhiên, những căng thẳng thuế quan mới nhất giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể làm cho triển vọng kinh tế thế giới xấu đi, tiềm ẩn nhiều rủi ro và gây áp lực lớn lên việc hoàn thành các mục tiêu tăng trưởng của Việt Nam.
Trên phạm vi toàn cầu, lạm phát được dự báo tiếp tục xu hướng giảm, xuống còn 4,2% trong năm 2025 và 3,7% trong năm 2026 (IMF, 10/2025), nhưng có sự trái ngược là lạm phát tăng tại Hoa Kỳ và giảm tại nhiều nước khác trên thế giới. Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (FED) tiếp tục chu kỳ nới lỏng tiền tệ sau khi hạ lãi suất một cách thận trọng 25 điểm phần trăm ngày 17/9/2025. Đây là lần đầu tiên FED điều chỉnh chính sách tiền tệ trong năm nay, sau khi giảm lãi suất 3 lần liên tiếp trong năm 2024, đưa biên độ lãi suất xuống 4 - 4,25%. Tuy nhiên, điều này cũng thúc đẩy xu hướng dòng vốn USD ngắn hạn rời khỏi Việt Nam và làm gia tăng nhu cầu vàng ở Việt Nam, đẩy giá vàng trong nước liên tiếp phá vỡ đỉnh lịch sử trong tháng 10/2025. Theo IMF, trong năm 2025 - 2026, hoạt động thương mại toàn cầu dự báo tăng trung bình 2,9%, chủ yếu nhờ tập trung các nỗ lực thương mại, đầu tư trong năm 2025, nhưng vẫn thấp hơn kết quả tăng 3,5% trong năm 2024.
Tuy nhiên, nguy cơ giảm tốc kinh tế toàn cầu vẫn hiện hữu do: (i) Xu hướng leo thang các rào cản thương mại có thể ảnh hưởng đến đầu tư, gây rối loạn các chuỗi cung ứng và kìm hãm những nỗ lực tăng năng suất lao động. Nếu các cú sốc về cung ứng lao động vượt quá mức độ cảnh báo, tăng trưởng kinh tế sẽ giảm, nhất là tại những quốc gia đang đối diện với xu hướng già hóa dân số và thiếu hụt lao động chuyên môn; (ii) Lạm phát dai dẳng dù nhiều Ngân hàng Trung ương đã nỗ lực siết chặt chính sách tiền tệ, giá cả hàng hóa, đặc biệt là năng lượng và lương thực, nhưng vẫn chưa thể ổn định tình hình do xung đột khó lường ở Trung Đông và Ukraine. Thêm vào đó, căng thẳng thương mại và biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng đến việc ổn định giá cả; (iii) Nợ công toàn cầu đã tăng lên mức kỷ lục, chiếm hơn 93% GDP thế giới. Ở Nhật Bản, mức nợ công đã lên tới 234,9% GDP. Ở Hoa Kỳ, IMF dự báo nợ công sẽ tăng từ 125% GDP năm 2025 lên 143% GDP vào cuối thập kỷ. Ở Italia, một báo cáo gần đây cho biết, nợ công dự kiến đạt 136,2% GDP năm 2025, rồi tăng lên 137,4% năm 2026. Đáng lo ngại hơn, hàng chục quốc gia đang phát triển ở châu Phi và Nam Á có nguy cơ mất khả năng thanh toán khi đồng nội tệ mất giá và chi phí vay vốn quốc tế tăng vọt. IMF cảnh báo, nếu các chính phủ không kiểm soát chi tiêu và cải thiện nguồn thu, nợ công toàn cầu có thể vượt 100% GDP vào cuối thập kỷ này, kéo theo nguy cơ khủng hoảng tài chính diện rộng; (iv) Xu hướng phân mảnh chuỗi cung ứng toàn cầu, hậu quả của xung đột thương mại, chính sách bảo hộ và căng thẳng địa chính trị. Các khối kinh tế lớn ngày càng có xu hướng “tự cô lập” để bảo vệ lợi ích chiến lược, dẫn đến sự đứt gãy trong luồng vốn, công nghệ và hàng hóa. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp đa quốc gia buộc phải tái cấu trúc chuỗi cung ứng, chuyển sản xuất sang các quốc gia an toàn hơn. Tuy nhiên, động thái này khiến chi phí sản xuất tăng và hiệu quả giảm; (v) Các bất ổn địa chính trị gia tăng tại Ukraine, Trung Đông, cùng các điểm nóng mới nổi ở châu Phi, Nam Á trực tiếp đe dọa sự ổn định của kinh tế toàn cầu; (vi) Biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất nông nghiệp, năng lượng và chuỗi cung ứng toàn cầu.

Tại diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam thường niên năm 2025. Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, Việt Nam phấn đấu tăng trưởng 8% trong năm 2025, 2 con số trong những giai đoạn tiếp theo (Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính phủ).
2. Tình hình kinh tế - tài chính trong nước
2.1. Những kết quả đạt được
Tăng trưởng được duy trì bất chấp biến động từ thuế đối ứng
Tăng trưởng GDP 3 quý đầu năm 2025 đạt mức cao 7,85%, chỉ thấp hơn tốc độ tăng cùng kỳ năm 2022 trong giai đoạn 2011 - 2025. Các khu vực đều tăng trưởng tốt trong bối cảnh trong và ngoài nước không thực sự thuận lợi, cho thấy nội lực và khả năng thích ứng của nền kinh tế Việt Nam đang dần được củng cố. Chỉ số PMI tiếp tục duy trì trên ngưỡng 50 điểm tháng thứ ba liên tiếp, khi đạt 50,4 điểm trong tháng 9/2025, cho thấy nội lực ngành sản xuất vẫn được đảm bảo.
Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm
Lạm phát được duy trì ở mức ổn định và dưới mục tiêu Quốc hội đề ra. Bình quân 9 tháng đầu năm 2025, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 3,27% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra cho cả năm, cho thấy khả năng kiểm soát lạm phát của Chính phủ, dù có những áp lực từ giá cả trên các thị trường khác như vàng, bất động sản và tiền ảo. Tuy nhiên, áp lực lạm phát được dự báo sẽ tăng trong quý IV/2025, do ảnh hưởng từ các cơn bão gần đây.
Thu ngân sách nhà nước (NSNN) 9 tháng đầu năm 2025 đạt kết quả vượt trội, đạt gần 98% dự toán năm 2025, tăng 30,5% so với cùng kỳ năm 2024. Nợ công cả năm 2025 ước ở mức 35 - 36% GDP, thâm hụt ngân sách 3,1 - 3,2% GDP, thấp hơn nhiều so với ngưỡng Quốc hội cho phép, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ khoảng 19 - 20% tổng thu ngân sách, dưới ngưỡng theo khuyến cáo (khoảng 25%).
Xuất, nhập khẩu hàng hóa 9 tháng đầu năm 2025, đạt hơn 680 tỷ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu (18,8%) cao hơn xuất khẩu (16%), cho thấy tín hiệu tích cực về sự phục hồi sản xuất trong nước. Cán cân thương mại tiếp tục duy trì trạng thái xuất siêu, đạt 16,8 tỷ USD, đóng góp quan trọng vào cân đối vĩ mô và dự trữ ngoại hối của nền kinh tế. Đặc biệt, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như điện tử, máy tính và linh kiện, điện thoại và linh kiện, máy móc thiết bị đều đạt kim ngạch cao, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Tỷ giá tạm thời hạ nhiệt trong ngắn hạn. Gần đây, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện can thiệp kỹ thuật thông qua việc bán ngoại tệ có kỳ hạn cho các ngân hàng thương mại (NHTM) với quy mô khoảng 2,8 tỷ USD. Với dự trữ ngoại hối mỏng, nhu cầu ngoại tệ được dồn sang năm sau thông qua giải pháp này đã phần nào giúp trì hoãn áp lực tỷ giá trong ngắn hạn. Ngoài ra, các chính sách mới về thị trường vàng (Nghị định số 232/2025/NĐ-CP) và tài sản mã hóa (Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP) kỳ vọng cũng giúp giảm bớt áp lực tỷ giá trong các tháng còn lại của năm 2025, thông qua việc kiểm soát dòng ngoại tệ không chính thống chảy vào các tài sản này.
Chất lượng tăng trưởng được cải thiện
Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, thể hiện qua hiệu quả đầu tư và năng suất lao động. Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội/GDP đạt 29,5%, trong khi tốc độ tăng năng suất lao động đạt 6,08%. Điều này cho thấy sự đóng góp tích cực của khoa học và công nghệ vào nền kinh tế.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội quý sau cao hơn quý trước
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội 9 tháng đầu năm 2025 tăng 11,6%, cao hơn nhiều so với mức tăng 7% của cùng kỳ năm trước; giải ngân vốn đầu tư công đạt 440,4 nghìn tỷ đồng, đạt khoảng 50% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, tập trung vào các dự án hạ tầng trọng điểm (như đường bộ cao tốc, năng lượng). Thu hút FDI 9 tháng đầu năm 2025 đạt hơn 28,5 tỷ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký và vốn thực hiện của khu vực FDI đều tăng khá, thể hiện niềm tin ngày càng tăng của nhà đầu tư quốc tế đối với phát triển kinh tế Việt Nam.
Hoạt động doanh nghiệp có nhiều dấu hiệu khởi sắc
Số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập trong 9 tháng đầu năm 2025 đạt trên 231 nghìn doanh nghiệp, tăng 26,4%, trong khi số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường chỉ tăng 6,8%, thấp nhất từ năm 2021 đến nay. Trong quý III/2025, có đến 77,8% doanh nghiệp được đánh giá tình hình sản xuất - kinh doanh tốt và ổn định hơn so với quý II/2025[1]. Dự kiến quý IV/2025, con số này tăng lên là 82,5%. Kết quả đó khẳng định nỗ lực và quyết tâm thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 68/NQ-TW ngày 04/5/2025 về kinh tế tư nhân và các quyết sách chiến lược về đột phá thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh.
Thị trường chứng khoán (TTCK) được thăng hạng, thị trường tài chính hoạt động tích cực
Thị trường chứng khoán Việt Nam được tổ chức xếp hạng FTSE Russell thăng hạng từ “Thị trường cận biên - Frontier Market” thành “Thị trường mới nổi thứ cấp - Secondary Emerging Market” vào tháng 9/2026. Điều này phản ánh những nỗ lực cải cách toàn diện của Việt Nam trong việc cải thiện TTCK minh bạch, hiện đại, hiệu quả theo các chuẩn mực quốc tế cao nhất, góp phần nâng cao vị thế quốc gia trên bản đồ đầu tư toàn cầu. Các diễn biến trên TTCK từ đầu năm cũng tương đối tích cực, tính chung 9 tháng đầu năm 2025, tổng mức huy động vốn trên TTCK đạt 394,3 nghìn tỷ đồng, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2024; giá trị giao dịch bình quân trên thị trường cổ phiếu đạt 29,2 nghìn tỷ đồng/phiên, tăng gần 40% so với bình quân năm 2024. Việt Nam cũng trở thành thị trường có thanh khoản cao nhất khu vực ASEAN.
Thị trường trái phiếu
Về thị trường trái phiếu chính phủ, lũy kế đến ngày 30/9/2025, Kho bạc Nhà nước đã phát hành 255.689 tỷ đồng, đạt 51,1% kế hoạch cả năm (500 nghìn tỷ đồng). Dư nợ trái phiếu chính phủ đến ngày 30/9/2025 đạt 2,53 triệu tỷ đồng, tương đương 22% GDP năm 2024. Về thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), lũy kế đến ngày 26/9/2025, thị trường TPDN riêng lẻ ghi nhận những kết quả tích cực với 74 doanh nghiệp phát hành thành công khoảng 362 nghìn tỷ đồng, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2024.
Tăng trưởng tín dụng
Lãi suất cho vay cơ bản ổn định, thậm chí giảm nhẹ, tăng trưởng tín dụng khởi sắc: Lãi suất cho vay giảm nhẹ khi các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp tục đẩy mạnh các gói tín dụng với lãi suất ưu đãi nhằm kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy tăng trưởng. Lãi suất cho vay bình quân của các khoản cho vay mới ở mức là 6,38%/năm, giảm khoảng 0,56% so với cuối năm 2024.
Tín dụng của nền kinh tế tăng trưởng khá, tính đến ngày 29/9/2025, tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 13,37% so với cuối năm 2024, gấp gần 1,5 lần mức 9,11% cùng kỳ năm 2024 và là mức cao nhất so với cùng kỳ 5 năm khi NHNN tiếp tục nới lỏng, linh hoạt chính sách tiền tệ cùng với các gói tín dụng ưu đãi, tập trung cho lĩnh vực sản xuất, kinh doanh (chiếm 78% tổng dư nợ), cho thấy dòng vốn được định hướng đúng hướng và hiệu quả.
2.2. Những khó khăn, tồn tại
Bên cạnh kết quả đạt được, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế và phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, tác động đến ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững:
Các động lực tăng trưởng truyền thống chưa phát huy hết tiềm năng: (i) Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công còn chậm, mục tiêu giải ngân 100% vốn đầu tư công trong năm 2025 vẫn còn thách thức do gặp các điểm nghẽn về công tác giải phóng mặt bằng; chậm trễ trong lập, phê duyệt, điều chỉnh quy hoạch; tình trạng thiếu hụt vật liệu xây dựng, đặc biệt là cát, đất đắp và đá; các thủ tục đầu tư, đấu thầu, thẩm định, phê duyệt dự án phức tạp và kéo dài; năng lực quản lý của chủ đầu tư và năng lực thi công của các nhà thầu còn hạn chế; việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy hành chính khiến một số dự án phải tạm dừng khởi công mới để phù hợp với nhu cầu của các đơn vị sau sắp xếp, hoặc các dự án phải điều chỉnh do thay đổi chủ đầu tư, gián đoạn thanh toán...; (ii) Tăng trưởng của xuất khẩu và đầu tư FDI vẫn dựa nhiều vào khu vực gia công, giá trị gia tăng nội địa còn thấp; các rào cản thương mại và tiêu chuẩn xanh tại Hoa Kỳ, EU ngày càng siết chặt, tốc độ tăng tiêu dùng chậm lại…; trong khi các động lực tăng trưởng mới cần thời gian để phát huy hiệu quả.
Sức ép chỉ đạo điều hành kinh tế vĩ mô còn lớn. Mặc dù lạm phát trong nước được kiểm soát, áp lực từ chính sách lãi suất cao kéo dài của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới tiếp tục tạo áp lực lên tỷ giá và chi phí vốn cho các doanh nghiệp. Tính đến đầu tháng 10/2025, tỷ giá liên ngân hàng đã tăng 3,54%, tỷ giá trung tâm tăng 3,5% so với đầu năm, dù chỉ số đồng USD giảm 9,8% trên thị trường quốc tế. Thị trường vàng diễn biến phức tạp, làm hạn chế khả năng huy động vốn trung và dài hạn.
Cán cân thương mại chưa bền vững; khu vực công nghiệp và dịch vụ phục hồi tốt nhưng chưa đồng đều giữa các vùng. Thặng dư thương mại hàng hóa chỉ tương đương gần 80% so với cùng kỳ năm 2024 trong khi nhập siêu dịch vụ vẫn khá cao (8,3 tỷ USD) gây áp lực lên cán cân thương mại tổng thể, dự trữ ngoại hối và tỷ giá. Đồng thời, vẫn còn những rủi ro hiện hữu đối với hoạt động xuất khẩu, bao gồm: (i) Thặng dư thương mại hàng hóa dự kiến thu hẹp trong năm nay do hoạt động xuất khẩu sẽ chậm lại trong quý IV/2025 khi các nhà nhập khẩu đẩy mạnh tích trữ hàng hóa trước hạn thuế quan vào đầu tháng 8/2025 trong khi Việt Nam vẫn cần duy trì hoạt động nhập khẩu từ Hoa Kỳ để giảm thiểu rủi ro bị áp thuế cao; (ii) Các nhà nhập khẩu cũng sẽ cần thêm thời gian để chờ thêm thông tin về định nghĩa cụ thể của các loại hàng hóa, đặc biệt là quy định về nguồn gốc xuất xứ cho “hàng hóa trung chuyển”; (iii) Chênh lệch gía vàng trong nước và thế giới trong bối cảnh giá vàng tăng; (iv) FED có thể áp dụng lập trường ít ôn hòa hơn để kiềm chế lạm phát nếu không có tín hiệu rõ ràng nào cho thấy thị trường lao động hoặc nền kinh tế suy yếu.
Bên cạnh đó, chỉ số sản xuất công nghiệp IIP tháng 9/2025 vẫn thấp hơn so với cùng kỳ trước dịch Covid - 19. Chỉ số PMI sản xuất tháng 9/2025 đạt 50,4 điểm – mức trên trung bình, nhưng số lượng đơn hàng xuất khẩu mới tiếp tục giảm. Tăng trưởng vốn đầu tư tư nhân đạt 7,8% trong tháng 9/2025, thấp hơn nhiều so với mức trước dịch Covid - 19[2].
Tăng trưởng dịch vụ, tiêu dùng nội địa chưa thực sự vững chắc. Mặc dù khách quốc tế đến nước ta tăng cao nhưng tiêu dùng hộ gia đình còn chịu áp lực từ thu nhập thực tế, người dân có xu hướng thay đổi thói quen tiêu dùng. Về tiêu dùng, nếu loại trừ yếu tố giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 7,2% so với cùng kỳ, bằng khoảng 72% mức tăng trung bình trước dịch 2018 - 2019 (10%), doanh thu lưu trú - ăn uống tăng thấp hơn đáng kể so với mức tăng về lượng khách du lịch quốc tế (tăng 21,5%), cho thấy xu hướng tiêu dùng tiết kiệm hơn của du khách và các chính sách kích cầu du lịch vẫn chưa phát huy hiệu quả rõ nét…
Tình hình sản xuất, đầu tư, doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, đầu tư tư nhân vẫn cần được củng cố mạnh mẽ hơn để tạo nội lực bền vững. Doanh nghiệp nội địa đang phải đối mặt với rủi ro từ thị trường bên ngoài, bắt nguồn từ chủ yếu 2 nguyên nhân (i) Căng thẳng thương mại - công nghệ đang thúc đẩy giá cả tăng cao, hạn chế xuất khẩu; (ii) Dư cung hàng hóa tại Trung Quốc do xung đột thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc và tiêu dùng trong nước của Trung Quốc yếu đi. Để giải phóng hàng tồn kho, Trung Quốc phát triển rất mạnh và thành công sàn giao dịch hàng hóa điện tử khắp toàn cầu, trong đó có chiến lược hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp bán hàng qua biên giới, đặt kho hàng áp sát biên giới cũng như giảm chi phí vận chuyển ở mức thấp nhất. Điều này đã, đang và sẽ tiếp tục là thách thức lớn nhất với doanh nghiệp Việt Nam khi mất lợi thế cạnh tranh về giá, sự đa dạng của mẫu mã, hàng hóa, truyền thông, phí logistic ngay tại thị trường nội địa so với hàng hóa từ Trung Quốc. Trong nước, những vướng mắc về pháp lý từ các dự án còn chậm giải quyết, chi phí đầu vào (giá điện, logistics…) ở mức cao, đơn hàng thiếu bền vững, biên lợi nhuận giảm…cũng làm các doanh nghiệp nội địa gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, kinh doanh. Đầu tư tư nhân vẫn chưa được khơi thông, tín dụng toàn hệ thống tăng 12,04%, nhưng dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ đạt 9,62%.
Rủi ro thiên tai, khí hậu gia tăng với tần suất lớn: Tần suất bão lũ gia tăng trong mấy năm gần đây, đặc biệt rơi vào quý III và đầu quý IV/2025 đã gây thiệt hại rất lớn cả về người và tài sản, gây ảnh hưởng lớn đến chuỗi cung ứng, chi phí vận tải và hoạt động sản xuất - kinh doanh.
Rủi ro, thách thức từ bên ngoài vẫn hiện hữu: (i) Rủi ro địa chính trị và căng thẳng thương mại - công nghệ vẫn hiện hữu và khó dự báo; (ii) Nhiều nền kinh tế lớn (Hoa Kỳ, EU…) tăng trưởng chậm lại do thuế quan, tác động đến xuất khẩu, đầu tư FDI và du lịch của Việt Nam; (iii) Lạm phát, lãi suất dù giảm nhưng còn ở mức cao, khiến đà phục hồi khó khăn hơn nhiều, rủi ro nợ công và tư còn cao…
3. Một số đề xuất giải pháp
Có thể thấy, tình hình kinh tế vĩ mô cuối năm nay vẫn còn nhiều khó khăn. Để có thể thực hiện mục tiêu tăng trưởng 8,3 - 8,5% năm 2025, Việt Nam cần thực hiện các giải pháp sau:
(1) Triển khai quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các Nghị quyết đột phá của Bộ Chính trị (nhất là Nghị quyết số 57, 59, 66, 68, 70, 71 và 72) và các nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ để khơi thông nguồn lực truyền thống và hình thành các động lực mới, tạo đà bứt phá cho tăng trưởng kinh tế năm 2025 và các năm tiếp theo.
(2) Ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát: Tiếp tục điều hành chính sách tài khóa, bám sát với các chủ trương, nhiệm vụ của Chính phủ, kết hợp linh hoạt giữa mở rộng chi tiêu một cách có điều kiện, tăng cường hỗ trợ cho sản xuất - kinh doanh với tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính; đồng thời phối hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ linh hoạt, hướng đến các mục tiêu chung là đẩy mạnh tăng trưởng, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô hướng đến phát triển bền vững lâu dài; theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình, bảo đảm ổn định thị trường, giá cả.
(3) Chủ động, linh hoạt thích ứng với chính sách thuế quan của Hoa Kỳ: (i) Thực hiện nghiêm túc các cam kết trong thỏa thuận thương mại của Việt Nam - Hoa Kỳ, đồng thời chủ động, tích cực, kiên trì đàm phán với Hoa Kỳ nhằm giảm thêm thuế đối ứng, nhất là theo ngành hàng để tạo thuận lợi cho tăng trưởng xuất khẩu và thu hút FDI của Việt Nam; (ii) Hoàn thiện Nghị định về kiểm soát thương mại chiến lược; Nghị định về xuất xứ hàng hóa, trong đó chú trọng giải quyết các quan ngại của Hoa Kỳ về sở hữu trí tuệ, thao túng tiền tệ, dược phẩm, năng lượng, an ninh mạng, gian lận thương mại, nguồn gốc xuất xứ, trung chuyển hàng hóa...; (iii) Hỗ trợ doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường, đối tác và chuỗi cung ứng như triển khai hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, tháo gỡ rào cản, tạo thuận lợi cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm nghiệp, thủy sản; cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn mới của thị trường xuất khẩu, hỗ trợ doanh nghiệp trong các vụ kiện chống bán phá giá, tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm để mở rộng thị trường tiêu thụ, thúc đẩy xuất khẩu; (iv) Thu hút đầu tư có chọn lọc và tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp FDI, để nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, chuyển giao công nghệ, phát triển chuỗi cung ứng, tăng tỷ lệ nội địa hóa, đồng thời theo dõi sát diễn biến chính sách để có đối sách kịp thời.
(4) Kích cầu tiêu dùng nội địa; làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống và khai thác mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới: Triển khai có hiệu quả các chính sách kích cầu tiêu dùng, phát triển mạnh thị trường trong nước. Quyết liệt tháo gỡ mọi nút thắt về thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng và nâng cao năng lực quản lý để đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án, đặc biệt là các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm của đất nước; bảo đảm giải ngân tối đa hướng tới mục tiêu giải ngân 100% vốn đầu tư công mà Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu. Về xuất khẩu, cần có cơ chế hỗ trợ thiết thực cho doanh nghiệp, đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu, tận dụng tốt các hiệp định thương mại tự do để mở rộng không gian tăng trưởng. Hoàn thiện thể chế và xây dựng các ưu đãi đặc thù để huy động và sử dụng có hiệu quả các mô hình kinh tế mới như kinh tế số và đổi mới sáng tạo, kinh tế xanh và năng lượng tái tạo, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tóc bạc, kinh tế tầm thấp, kinh tế cận biên.
(5) Đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế: Tiếp tục tập trung hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật tháo gỡ những rào cản, thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành các mục tiêu cơ cấu lại các lĩnh vực trọng tâm và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, các chương trình mục tiêu quốc gia và phấn đấu đạt tỉ lệ giải ngân 100% kế hoạch năm 2025; tích cực triển khai xây dựng Chính phủ số và các giải pháp chính sách cải thiện, nâng cấp chất lượng môi trường đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển doanh nghiệp; tập trung phát huy vai trò dẫn dắt đổi mới mô hình tăng trưởng của các đô thị lớn, các cực tăng trưởng; đẩy mạnh chuyển dịch các ngành theo hướng sử dụng công nghệ hiện đại; phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số; phát triển các loại thị trường, tăng cường ứng dụng công nghệ số với những giải pháp đột phá, cải cách mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, sâu rộng để thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế.
Nguồn: Trung tâm Thông tin kinh tế, tài chính và thống kê
Tài liệu tham khảo
1. World Trade Organization (10/2025), Global Trade Outlook and Statistics Update: October 2025.
2. IMF (10/2025), World Economic Outlook: Global Economy in Flux Prospect Remain Dim.
3. OECD (9/2025), OECD Economic Outlook, Interim Report September 2025: Finding the Right Balance in Uncertain Times, OECD Publishing, Paris.
4. United Nations (9/2025), World Economic Situation and Prospect 2025, September Update.
[1] Theo kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
[2] Trong 9 tháng năm 2018 - 2019, tăng khoảng 17%.