Quảng Ninh - Tiên phong nâng chuẩn nghèo và những bước đi khác biệt
18/08/2025 11:11
Là một trong những địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng đầu cả nước, Quảng Ninh không lựa chọn “dễ đi” trong hành trình giảm nghèo, mà chủ động nâng chuẩn nghèo cao hơn mức quốc gia, coi đây là động lực để cải thiện nhanh đời sống người dân. Tỉnh đã lồng ghép hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững với xây dựng nông thôn (NTM) mới và phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, hình thành mô hình giảm nghèo đa chiều đặc trưng. Nhờ đó, Quảng Ninh không chỉ xóa nghèo theo chuẩn quốc gia trước thời hạn, bảo đảm “không ai bị bỏ lại phía sau”, mà còn tạo ra chuẩn sống mới.
Tư duy “nâng chuẩn nghèo” và cách tiếp cận đa chiều - động lực để giảm nghèo nhanh và bền vững
Trong bức tranh chung của cả nước giai đoạn 2021 - 2025, Quảng Ninh nổi lên như một địa phương “đi trước” trong giảm nghèo bền vững, chủ động nâng chuẩn nghèo đa chiều lên mức cao hơn Trung ương khoảng 1,4 lần, đồng thời đo lường thiếu hụt dịch vụ cơ bản nghiêm ngặt hơn. Theo Nghị quyết số 13/2023/NQ-HĐND của tỉnh, chuẩn hộ nghèo đa chiều giai đoạn 2023 - 2025 được xác lập ở mức 2,6 triệu đồng/người/tháng khu vực đô thị và 2,1 triệu đồng/người/tháng khu vực nông thôn, đồng thời yêu cầu thiếu hụt từ 3 dịch vụ xã hội cơ bản trở lên để xác định hộ nghèo. Việc “nâng chuẩn” này tạo ra động lực chính sách tích cực: Nguồn lực phải đi nhiều hơn vào sinh kế, dạy nghề, y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin…, thay vì chỉ dừng lại ở hỗ trợ thu nhập tối thiểu.
Điểm đáng chú ý là Quảng Ninh không xem giảm nghèo là một chương trình đơn lẻ, mà lồng ghép giữa Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững với Chương trình xây dựng NTM và Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN). Cách làm “ba chương trình trong một hệ sinh thái” cho phép tận dụng hạ tầng NTM để giảm chi phí giao dịch đối với hộ nghèo; tận dụng chính sách dân tộc thiểu số để khắc phục thiếu hụt dịch vụ cơ bản ở vùng sâu, vùng xa; còn Chương trình giảm nghèo là “xương sống” kết nối và giám sát tính bền vững của thoát nghèo. Nhờ đó, đến hết năm 2022, tỉnh đã hoàn thành 98/98 xã đạt chuẩn NTM, trong đó có xã NTM nâng cao, kiểu mẫu; và tiếp tục duy trì đà bao trùm trong các năm tiếp theo. (Các mốc NTM đã được ghi nhận, và tiếp tục được dùng làm nền cho giảm nghèo đa chiều giai đoạn 2023 - 2025).
Quảng Ninh còn coi giảm nghèo là mục tiêu của cả hệ thống chính trị, được điều hành bằng cơ chế quản trị theo kết quả. Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TU (27/11/2023) đặt mục tiêu đến hết 2024 không còn hộ nghèo và giảm 50% hộ cận nghèo theo chuẩn tỉnh, tiến tới xóa cả hộ nghèo, cận nghèo theo chuẩn tỉnh vào 2025. Cơ quan, địa phương nào không đạt mục tiêu phải giải trình nguyên nhân và biện pháp khắc phục.
Quyết tâm “không ai bị bỏ lại phía sau” được cụ thể hoá bằng các chính sách đầu tư hạ tầng vùng khó, hỗ trợ tín dụng chính sách, đào tạo nghề quy mô lớn, kích hoạt OCOP - du lịch cộng đồng để tạo sinh kế.
Thành quả ấn tượng với giảm nghèo bền vững
Trước hết, xét theo chuẩn nghèo đa chiều của Trung ương, đến năm 2023 Quảng Ninh không còn hộ nghèo; năm 2024 cả nước có tỷ lệ nghèo đa chiều (gồm hộ nghèo + cận nghèo) 4,06%, song Quảng Ninh nằm trong nhóm địa phương không còn hộ nghèo theo chuẩn này. Điều đó cho thấy kết quả vượt trội của tỉnh trong bối cảnh trung bình cả nước vẫn còn hàng triệu hộ nghèo/cận nghèo đa chiều.
Toàn cảnh phát triển đô thị du lịch xanh ở Quảng Ninh
Quan trọng hơn, theo chuẩn nâng cao của chính tỉnh đặt ra - thước đo phản ánh tham vọng và chất lượng bao trùm - năm 2023 Quảng Ninh còn 246 hộ nghèo (0,064%) và hơn 3.000 hộ cận nghèo. Sang 6 tháng đầu năm 2024, tỉnh giảm 121/246 hộ nghèo (49,19% kế hoạch năm) và giảm 828 hộ cận nghèo (69% kế hoạch năm); đến 8 tháng năm 2024, con số giảm đạt 226/246 hộ nghèo (91,86% kế hoạch năm) và 1.591 hộ cận nghèo (132,58% kế hoạch năm) - tiến độ vượt kỳ vọng ở nhóm cận nghèo, qua đó thu hẹp nhanh “vùng rìa” tái nghèo.
Thu nhập bình quân khu vực nông thôn đạt 73,43 triệu đồng/người/năm (2023), vượt chuẩn quốc gia nhiều lần. GRDP 6 tháng đầu năm 2025 tăng 11,03%, cao hơn cùng kỳ 2024 tới 2 điểm phần trăm, giúp tạo nguồn lực bền vững cho chính sách an sinh.
Song hành với tăng trưởng, tổng chi an sinh xã hội của Quảng Ninh được duy trì ở mức cao và có xu hướng tăng qua các năm. Năm 2023 chi cho an sinh xã hội đạt khoảng 1.437 tỷ đồng, tăng 21,8% so với năm 2022; năm 2024 chi đạt khoảng 1.897 tỷ đồng, tăng 23% so với năm 2023. Trong 6 tháng đầu năm 2025, mức chi cho an sinh xã hội đã đạt 1.270 tỷ đồng - một tín hiệu cho thấy ưu tiên ngân sách bền bỉ cho giảm nghèo đa chiều.
Đặt chuẩn nghèo cao không phải để “làm khó” người dân hay chính quyền cấp dưới, mà là để chống tự mãn và neo kỳ vọng vào chất lượng sống tối thiểu ở mức cao hơn trung bình. Tỉnh không chỉ dừng ở con số thu nhập, mà gắn liền với thiếu hụt dịch vụ cơ bản (y tế, giáo dục, nước sạch, thông tin, nhà ở, việc làm…). Cách làm này phản ánh tư duy: Thoát nghèo phải đi với nâng chất lượng sống, và “bền vững” nghĩa là ít rủi ro tái nghèo khi đối mặt cú sốc.
Quảng Ninh dùng NTM để trải hạ tầng và dịch vụ công cơ bản về tận thôn, bản; dùng Chương trình vùng DTTS&MN để ưu tiên những nơi “thiếu hụt tập trung”; và dùng Chương trình giảm nghèo để nhắm đúng đối tượng, cấp đúng “cần câu” (tín dụng chính sách, dạy nghề, kết nối việc làm) thay cho “con cá” ngắn hạn. Chính nhờ hệ sinh thái này, các chỉ tiêu giảm nghèo trong năm 2024 đạt vượt tiến độ, đặc biệt ở nhóm cận nghèo - nhóm rủi ro tái nghèo cao nhất.
Năm 2024, tỉnh đã tuyển sinh, đào tạo nghề cho khoảng 40 nghìn người, chủ yếu các khóa ngắn hạn dưới 3 tháng, gắn trực tiếp với nhu cầu doanh nghiệp trong du lịch - dịch vụ, nông nghiệp hàng hóa, logistics… Tỉnh coi đây là “đột phá mềm” giúp hộ nghèo/cận nghèo tự chủ thu nhập, giảm phụ thuộc vào trợ cấp.
Một điểm khác biệt nữa là Quảng Ninh lồng ghép mục tiêu giảm nghèo vào phát triển kinh tế vùng khó. Các xã vùng khó khăn được ưu tiên vốn đầu tư công để hoàn thiện hạ tầng giao thông, nước sạch, nhà ở an toàn, và triển khai các mô hình OCOP, du lịch cộng đồng. Các dự án này không chỉ cải thiện điều kiện sống mà còn tạo thị trường tiêu thụ và việc làm ngay tại địa phương.
Nhìn vào dữ liệu, có thể thấy Quảng Ninh đang thu hẹp nhanh “vùng rìa” cận nghèo - nhóm có nguy cơ tái nghèo cao nhất. Đây là thành công mang tính chiến lược, bởi khi nhóm này được nâng lên mức sống ổn định, tỷ lệ tái nghèo sẽ giảm đáng kể, đảm bảo tính bền vững cho thành quả giảm nghèo.
Giải pháp trọng tâm thời gian tới
Để hoàn thành mục tiêu không còn hộ nghèo, cận nghèo theo chuẩn tỉnh vào cuối 2025, Quảng Ninh đang triển khai nhóm giải pháp cụ thể, bám sát kế hoạch của tỉnh và tránh tình trạng “nói chung chung”:
Thứ nhất, duy trì tiến độ giảm nghèo theo chuẩn tỉnh, kết hợp “cảnh báo sớm tái nghèo”. Khoanh vùng và lập danh sách hộ có nguy cơ tái nghèo (do bệnh nặng, thiên tai, mất việc) để can thiệp tức thời. Vận hành hệ thống cảnh báo sớm qua cơ sở dữ liệu số hộ nghèo/cận nghèo, được cập nhật bởi cán bộ xã, thôn. Thiết lập “quỹ dự phòng tái nghèo” từ ngân sách và nguồn xã hội hóa, cấp hỗ trợ ngắn hạn (3 - 6 tháng) cho hộ gặp cú sốc, tránh “rơi nghèo” trở lại.
Thứ hai, duy trì “đòn bẩy tài chính” và ưu tiên vốn cho nhóm yếu thế. Bố trí ngân sách an sinh linh hoạt, gắn với quy mô hộ nghèo/cận nghèo thực tế từng quý. Tiếp tục ủy thác vốn qua Ngân hàng Chính sách xã hội cho hộ mới thoát nghèo, hộ cận nghèo và nhóm yếu thế có phương án sản xuất khả thi. Tận dụng dư địa tăng thu từ GRDP để tăng đầu tư vào bảo hiểm y tế toàn dân cho nhóm yếu thế, cải thiện hạ tầng nước sạch và nhà ở an toàn tại vùng DTTS&MN.
Thứ ba, đào tạo nghề gắn với chuỗi giá trị địa phương và nhu cầu doanh nghiệp. Duy trì quy mô đào tạo nghề khoảng 40 nghìn người/năm, nhưng tập trung 50 -60% vào đào tạo ngắn hạn dưới 3 tháng. Liên kết trực tiếp với doanh nghiệp du lịch, dịch vụ, logistics, nông nghiệp để cam kết tuyển dụng sau đào tạo. Hỗ trợ hộ nghèo/cận nghèo tham gia các chuỗi giá trị OCOP (miến dong Bình Liêu, dược liệu Ba Chẽ, hải sản Vân Đồn) và du lịch cộng đồng, kèm đào tạo thương mại điện tử và truy xuất nguồn gốc.
Thứ tư, hoàn thiện hạ tầng dịch vụ cơ bản vùng DTTS&MN. Hoàn thành các dự án cấp nước tập trung, phủ sóng viễn thông - internet, sửa chữa và xây mới nhà ở an toàn tại các thôn, bản còn thiếu hụt. Lồng ghép vốn từ Chương trình DTTS&MN và giảm nghèo để đạt mục tiêu “hai trong một”: Vừa nâng chất lượng sống, vừa tạo nền tảng để hộ nghèo tự vươn lên.
Thứ năm, tăng cường truyền thông và trợ giúp pháp lý để hộ yếu thế tiếp cận chính sách. Sử dụng hệ thống truyền thanh cơ sở, Zalo, Facebook và YouTube để thông tin chính sách đến từng hộ. Mở rộng điểm tư vấn pháp luật lưu động ở vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo để bảo vệ quyền lợi người lao động và giảm nguy cơ mất việc, giảm thu nhập đột ngột.
Thứ sáu, giám sát công khai kết quả theo xã/thôn. Công khai bảng điều khiển (dashboard) hằng quý gồm số hộ nghèo/cận nghèo, số việc làm mới, số hộ được vay vốn, số người học nghề có việc làm. Tạo động lực thi đua giữa các địa phương và giúp lãnh đạo tỉnh điều chỉnh chính sách dựa trên dữ liệu thực tế.
Thứ bảy, liên thông mục tiêu 2025 → 2030: Giữ chuẩn cao, đẩy mạnh “hậu nghèo”. Sau khi xóa hộ nghèo/cận nghèo theo chuẩn tỉnh vào 2025, giai đoạn 2026 - 2030 cần chuyển trọng tâm sang “hậu nghèo”: Chuẩn hoá nhà ở an toàn - nước sạch - kỹ năng số - bảo hiểm y tế toàn dân nhóm yếu thế; và áp dụng bộ chỉ số bền vững thoát nghèo 24 - 36 tháng. Một số xã đã đặt mục tiêu đến 2030 không còn hộ nghèo theo chuẩn tỉnh, thu nhập bình quân >120 triệu đồng/người/năm - cho thấy hướng đi cụ thể ở cấp cơ sở.
Thành công của Quảng Ninh trong Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững không nằm ở con số “sạch nghèo” theo chuẩn quốc gia, mà ở chỗ mạnh dạn nâng chuẩn, giảm nghèo ở tầm cao hơn. Bằng việc gắn giảm nghèo với tăng trưởng, lồng ghép đa chương trình, quản trị theo dữ liệu và phòng ngừa tái nghèo, Quảng Ninh đã xây dựng mô hình đáng để nhiều địa phương tham khảo. Đây cũng là minh chứng rằng, giảm nghèo không chỉ là chính sách hỗ trợ, mà là chiến lược phát triển bền vững, gắn liền với mục tiêu nâng tầm chất lượng sống của người dân.
Hoàng Vinh - Thu Hương
Tài liệu tham khảo
1. HĐND tỉnh Quảng Ninh (2023), Nghị quyết số 13/2023/NQ-HĐND quy định chuẩn nghèo đa chiều áp dụng trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2023 -2025.
2. Cổng TTĐT tỉnh Quảng Ninh (2025), Để không ai bị bỏ lại phía sau (đào tạo nghề ~40.000 người năm 2024).
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (2023), Nghị quyết số 20-NQ/TU ngày 27/11/2023 về phương hướng, nhiệm vụ năm 2024.
4. UBND tỉnh Quảng Ninh. (2023). Báo cáo kết quả rà soát hộ nghèo, cận nghèo năm 2023. Quảng Ninh.
5. UBND tỉnh Quảng Ninh. (2024). Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội vùng khó khăn. Quảng Ninh.