Quảng Ninh đạt nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
05/09/2025 15:00
Tỉnh Quảng Ninh xác định phát triển vùng dân tộc thiểu số (DTTS) không chỉ là nhiệm vụ an sinh, mà còn là chiến lược dài hạn để tạo cân bằng phát triển giữa miền núi - đồng bằng - ven biển. Do đó, ngày càng có nhiều mô hình phát triển mới, sáng tạo đã khơi thông nguồn lực, giúp đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thoát nghèo bền vững, nâng cao thu nhập, đưa Quảng Ninh trở thành một trong những địa phương của cả nước có nhiều điểm sáng trong phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Những thành tựu đạt được
Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025, Quảng Ninh đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật đáng ghi nhận. Cụ thể là:
Quảng Ninh đã huy động tổng nguồn lực đầu tư trên 120.000 tỷ đồng, trong đó ngân sách nhà nước chỉ chiếm khoảng 16% (19.400 tỷ đồng), còn lại là vốn ngoài ngân sách và tín dụng chính sách. Mỗi đồng vốn công đã kéo theo hơn 5 đồng vốn xã hội hóa. Đây là cách làm sáng tạo, biến ngân sách công thành “vốn mồi” dẫn dắt đầu tư tư nhân, khơi thông nguồn lực khổng lồ cho phát triển vùng DTTS và miền núi, hải đảo.
Ngoài ra, Quảng Ninh đã ban hành và triển khai đồng bộ nhiều chủ trương, chính sách đặc thù, trong đó nổi bật là Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 17/5/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về về phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Đây là Nghị quyết của Quảng Ninh nhằm cụ thể hóa chủ trương lớn của Trung ương, tạo khuôn khổ pháp lý và động lực chính trị để huy động tổng thể hệ thống chính trị và toàn xã hội tham gia phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và hải đảo. Trên cơ sở đó, các cấp chính quyền đã triển khai nhiều đề án, kế hoạch hành động, bảo đảm tính thống nhất, hiệu quả và phù hợp với đặc thù từng địa phương, qua đó đưa chính sách nhanh chóng đi vào cuộc sống, tạo chuyển biến rõ rệt về hạ tầng, sinh kế và chất lượng đời sống của người dân.
Nét đẹp của bản văn hóa người Tày ở Quảng Ninh nhìn từ trên cao (Nguồn: Báo Giáo dục & Thời đại)
Thu nhập của đồng bào DTTS đã có sự phát triển vượt bậc trong thời gian qua. Nếu năm 2021, thu nhập bình quân đầu người ở vùng DTTS mới đạt khoảng 54,2 triệu đồng thì đến năm 2024 đã tăng lên gần 84 triệu đồng, tăng 55% chỉ trong vòng 3 năm. Đây là minh chứng rõ nét cho hiệu quả của chính sách và cách thức triển khai phù hợp thực tiễn.
Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Ninh đã hoàn thành mục tiêu giảm nghèo trước 3 năm so với kế hoạch quốc gia: đến nay, không còn hộ nghèo theo chuẩn Trung ương, chỉ còn 8 hộ nghèo theo chuẩn riêng cao hơn của tỉnh. Tỷ lệ hộ cận nghèo DTTS chỉ còn 0,31%. Đây là thành quả vượt trội, thể hiện quyết tâm chính trị cao và nỗ lực của cả hệ thống chính trị.
Bảng 1. Thu nhập và tỷ lệ nghèo vùng DTTS Quảng Ninh giai đoạn 2021 - 2024
Năm | Thu nhập bình quân (triệu đồng/người/năm) |
Tỷ lệ hộ nghèo (%) |
2021 | 54,2 | 1,8 |
2022 | 66,5 | 0,85 |
2023 | 75,1 | 0,2 |
2024 | 83,79 | 0,0 (chuẩn TW) |
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các nguồn khác nhau
Trong giai đoạn 2021 - 2025, Quảng Ninh triển khai 785 công trình hạ tầng thiết yếu, gồm đường giao thông, điện, nước, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa. Đến tháng 6/2025, 100% xã có đường ô tô đến trung tâm; 100% thôn, bản có điện lưới quốc gia và sóng 4G. 99,99% hộ dân sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó dùng nước sạch theo chuẩn đạt trên 85%. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 95,1%. Những kết quả này không chỉ thay đổi diện mạo nông thôn miền núi mà còn thu hẹp khoảng cách phát triển giữa vùng DTTS và đô thị.
Bảng 2. Tỷ lệ hộ DTTS được tiếp cận hạ tầng và dịch vụ xã hội
Năm | Hộ có điện lưới (%) | Hộ dùng nước hợp vệ sinh (%) | Tỷ lệ trẻ đến trường đúng độ tuổi (%) | Tỷ lệ người dân tham gia BHYT (%) |
2022 | 99,2 | 97,1 | 96 | 92,7 |
2024 | 100 | 99,99 | 98 | 95,1 |
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các nguồn khác nhau
Chương trình OCOP cũng là một điểm nhấn quan trọng. Tính đến hết năm 2024, vùng đồng bào DTTS toàn tỉnh có 85 sản phẩm OCOP, trong đó 70% đạt từ 3 - 4 sao. Nhiều sản phẩm đặc trưng như miến dong Bình Liêu, chè hoa vàng, mật ong, dược liệu bản địa... đã khẳng định thương hiệu, tham gia chuỗi giá trị rộng lớn.
Bảng 3. Kết quả chương trình OCOP tại vùng DTTS Quảng Ninh
Năm | Sản phẩm OCOP mới | Lũy kế sản phẩm OCOP | Sản phẩm OCOP 3 - 4 sao (%) |
Hợp tác xã do người DTTS làm chủ |
2022 | 51 | 51 | 60 | 23 |
2024 | 85 | 85 | 70 | 34 |
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các nguồn khác nhau
Du lịch cộng đồng cũng phát triển mạnh mẽ: hàng loạt homestay của đồng bào Tày, Dao, Sán Chay được hình thành, tạo sinh kế bền vững, đồng thời bảo tồn giá trị văn hóa bản địa.
Tỉnh cũng chú trọng bảo vệ môi trường: tỷ lệ thu gom rác thải đạt 92%, đầu tư 19 lò đốt rác, 3 khu xử lý cấp vùng. Song song, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vùng biên giới, hải đảo được củng cố, bảo đảm sự ổn định và chủ quyền quốc gia.
Những hạn chế, thách thức và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu quan trọng, thực tiễn phát triển vùng đồng bào DTTS và miền núi ở Quảng Ninh vẫn còn không ít hạn chế và thách thức cần thẳng thắn nhìn nhận. Trước hết, hạ tầng tuy đã được đầu tư mạnh mẽ nhưng vẫn chưa thật sự đồng bộ, một số tuyến đường liên xã, liên thôn còn xuống cấp, đi lại khó khăn, đặc biệt vào mùa mưa; hệ thống cấp nước sinh hoạt tuy đã đạt tỷ lệ cao nhưng chất lượng ở một số nơi chưa ổn định, ảnh hưởng đến đời sống người dân. Về kinh tế, mặc dù các mô hình sản xuất mới, chương trình OCOP và du lịch cộng đồng đã có bước tiến rõ rệt, song nhìn chung sản xuất của đồng bào DTTS vẫn còn manh mún, chủ yếu dựa trên hộ gia đình, quy mô nhỏ, thiếu sự liên kết chuỗi giá trị; nhiều sản phẩm OCOP dừng lại ở mức tăng số lượng, còn hạn chế về mẫu mã, thương hiệu và sức cạnh tranh trên thị trường. Nguồn nhân lực chất lượng cao cũng là một điểm yếu, khi tỷ lệ lao động vùng đồng bào DTTS qua đào tạo nghề còn thấp, trình độ chuyên môn hạn chế; tỷ lệ học sinh DTTS theo học ở bậc cao đẳng, đại học vẫn thấp hơn nhiều so với vùng đô thị. Khoảng cách phát triển giữa vùng DTTS và đô thị tuy đã được rút ngắn, nhưng vẫn hiện hữu, thể hiện ở mức sống của đồng bào còn thấp hơn, một bộ phận hộ cận nghèo vẫn có nguy cơ tái nghèo nếu gặp thiên tai, dịch bệnh hay biến động thị trường. Ngoài ra, biến đổi khí hậu và thiên tai đang là thách thức ngày càng lớn, với nguy cơ sạt lở, lũ quét thường trực, gây thiệt hại cho hạ tầng và sản xuất. Cùng với đó, tình trạng thanh niên DTTS di cư ra ngoài tỉnh làm việc khiến một số địa phương thiếu hụt lực lượng lao động trẻ, ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế tại chỗ và duy trì các hoạt động văn hóa truyền thống.
Những hạn chế và thách thức trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan. Về khách quan, đặc thù địa hình phức tạp, dân cư phân tán, chi phí đầu tư lớn khiến cho việc triển khai các dự án hạ tầng và dịch vụ xã hội gặp nhiều trở ngại. Về chủ quan, tập quán sản xuất của một bộ phận đồng bào vẫn còn lạc hậu, tâm lý ngại thay đổi còn phổ biến, trong khi doanh nghiệp ít mặn mà đầu tư vào vùng DTTS do lợi nhuận thấp và chi phí vận hành cao. Bên cạnh đó, một số chính sách dù đúng đắn nhưng còn thiếu sự đồng bộ, chồng chéo về cơ chế, trong khi khâu giám sát, tổ chức thực hiện ở cơ sở chưa phải lúc nào cũng quyết liệt, dẫn tới hiệu quả chưa tương xứng với tiềm năng.
Giải pháp trong thời gian tới
Để tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được và khắc phục những tồn tại, hạn chế, Quảng Ninh cần triển khai một số giải pháp sau để tạo ra bước phát triển bền vững, đồng đều giữa các vùng, thu hẹp khoảng cách phát triển với khu vực đô thị, đồng thời nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số, bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với gìn giữ bản sắc văn hóa và bảo vệ môi trường sinh thái.
Thứ nhất, cá thể hóa chính sách theo đặc thù từng địa bàn và từng cộng đồng dân tộc. Vùng DTTS của Quảng Ninh không đồng nhất, mỗi khu vực lại có điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa và xã hội khác nhau. Do đó, thay vì áp dụng chung một khuôn mẫu, cần có những giải pháp thiết kế riêng, phù hợp với đặc điểm cụ thể. Chẳng hạn, vùng biên giới cần tập trung gắn phát triển kinh tế với giữ vững an ninh - quốc phòng, trong khi vùng có tiềm năng du lịch nên chú trọng xây dựng mô hình kinh tế gắn với bảo tồn văn hóa, còn những khu vực khó khăn hơn cần ưu tiên hạ tầng thiết yếu và sinh kế bền vững.
Thứ hai, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư. Ngân sách nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng, song không thể đáp ứng hết nhu cầu khổng lồ của vùng DTTS. Kinh nghiệm cho thấy, mỗi đồng vốn công ở Quảng Ninh đã kéo theo hơn 5 đồng vốn xã hội hóa. Thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục phát huy vai trò “vốn mồi” này, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến, năng lượng tái tạo và du lịch cộng đồng. Đồng thời, cần có chính sách ưu đãi mạnh mẽ hơn để thu hút nguồn lực tư nhân, nhất là trong lĩnh vực hạ tầng giao thông, xử lý môi trường và dịch vụ xã hội.
Thứ ba, đầu tư phát triển đồng bộ cả kinh tế, hạ tầng và dịch vụ xã hội. Muốn thay đổi căn bản diện mạo vùng DTTS, chỉ chú trọng phát triển kinh tế là chưa đủ; phải song hành với đầu tư hạ tầng, giáo dục, y tế và văn hóa. Quảng Ninh cần tiếp tục nâng cấp đường liên thôn, hệ thống cấp nước, xử lý rác thải, đồng thời bảo đảm mọi người dân vùng cao, vùng biên đều được tiếp cận giáo dục chất lượng và dịch vụ y tế cơ bản. Sự phát triển đồng đều giữa hạ tầng vật chất và dịch vụ xã hội sẽ tạo nền tảng vững chắc, ngăn chặn nguy cơ tái nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống lâu dài.
Thứ tư, phát huy vai trò trung tâm của cộng đồng. Một trong những nhân tố quan trọng làm nên thành công ở Quảng Ninh thời gian qua là việc coi người dân không chỉ là đối tượng thụ hưởng mà là chủ thể của phát triển. Thời gian tới, cần tiếp tục trao quyền cho cộng đồng, khuyến khích người dân tham gia vào các mô hình kinh tế hợp tác, OCOP, du lịch cộng đồng, đồng thời tạo cơ chế để họ được trực tiếp tham gia giám sát và phản hồi về quá trình thực thi chính sách. Khi cộng đồng có động lực và niềm tin, mọi nguồn lực bên ngoài mới có thể phát huy hiệu quả.
Thứ năm, phát triển gắn liền với bảo tồn văn hóa và bảo vệ môi trường. Vùng DTTS của Quảng Ninh không chỉ là không gian sinh sống mà còn là “kho tàng” văn hóa và sinh thái. Chính sách phát triển cần khai thác giá trị văn hóa để tạo sinh kế thông qua du lịch cộng đồng, OCOP, sản phẩm thủ công truyền thống, nhưng đồng thời phải tránh xu hướng thương mại hóa quá mức dẫn đến mai một bản sắc. Song song, cần có giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, hạn chế nguy cơ sạt lở, lũ quét, phát triển năng lượng tái tạo và mô hình kinh tế xanh để bảo đảm sự bền vững cho thế hệ sau.
Thứ sáu, tăng cường công tác giám sát, đánh giá và điều chỉnh chính sách. Một chính sách chỉ thực sự hiệu quả khi đi vào đời sống và mang lại thay đổi cụ thể. Vì vậy, Quảng Ninh cần thường xuyên rà soát, đánh giá việc thực hiện các chương trình vùng DTTS, kịp thời điều chỉnh những điểm bất hợp lý, đồng thời nhân rộng các mô hình điển hình. Việc minh bạch thông tin và tạo kênh phản hồi từ cơ sở sẽ giúp chính sách gần gũi hơn với người dân và tránh tình trạng hình thức.
Quảng Ninh đã chứng minh rằng, khi chính sách được cụ thể hóa đúng và triển khai quyết liệt, vùng DTTS, miền núi có thể “bứt phá” mạnh mẽ. Thành tựu ấn tượng về thu nhập, giảm nghèo, hạ tầng, OCOP, du lịch cộng đồng và môi trường cho thấy hướng đi chiến lược đúng đắn. Tuy nhiên, những hạn chế, thách thức về hạ tầng, nhân lực, kinh tế bền vững và biến đổi khí hậu vẫn đòi hỏi tỉnh tiếp tục nỗ lực, sáng tạo. Thời gian tới Quảng Ninh cần có những bước phát triển toàn diện, bền vững, lấy người dân làm trung tâm, gắn phát triển kinh tế với bảo tồn văn hóa, bảo vệ môi trường và gắn với giữ vững an ninh - quốc phòng nơi vùng biên.
ThS. Phạm Anh Tuấn
Tài liệu tham khảo
1. Báo Quảng Ninh điện tử, Tạo nền tảng vững chắc cho phát triển vùng dân tộc thiểu số.
2. Báo Quảng Ninh điện tử, Đổi thay ở vùng cao, vùng xa sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 06.
3. Báo Nhân dân điện tử, Quảng Ninh dành nhiều chính sách đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
4. Báo Kiểm toán điện tử, Quảng Ninh: Ưu tiên hỗ trợ nông dân vùng dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới phát triển kinh tế.
5. UBND tỉnh Quảng Ninh, Kết quả thực hiện Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.