Phát huy vai trò của chính sách thuế trong việc thực hiện mục tiêu Net - Zero của Việt Nam

13/08/2025 09:17


Trong giai đoạn vừa qua, hệ thống chính sách thuế của Việt Nam đã liên tục được rà soát để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong từng giai đoạn, trong đó có việc thực hiện mục tiêu giảm mức phát thải khí nhà kính, thúc đẩy tăng trưởng xanh. Quá trình thực hiện các chính sách này đến nay đã có nhiều tác động tích cực, góp phần khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động sản xuất xanh, tiêu dùng xanh; hạn chế việc sản xuất, tiêu dùng các loại hàng hóa có mức phát thải cao, tiêu tốn nhiều năng lượng. Đây là tiền đề quan trọng cho Việt Nam để tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thuế trong giai đoạn tới, cùng với các giải pháp khác góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu Net - Zero (phát thải ròng bằng “0”) vào năm 2050 mà Việt Nam đã cam kết.

1. Vai trò của chính sách thuế đối với việc thực hiện mục tiêu Net - Zero

Biến đổi khí hậu (BĐKH) là một trong những thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của kinh tế toàn cầu, tác động đến đời sống của người dân và hoạt động sản xuất, đầu tư của doanh nghiệp trên nhiều phương diện. Chi phí mà BĐKH gây ra đối với các nền kinh tế trên thế giới là rất lớn. Tại Hội nghị Thượng đỉnh về BĐKH lần thứ 21 (COP21) diễn ra tháng 12/2015 đã thông qua Thỏa thuận Paris, trong đó đề ra mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 (mục tiêu Net - Zero).

Để thực hiện được mục tiêu Net - Zero đòi hỏi cần có cách tiếp cận toàn diện và sự chung tay của các quốc gia trên thế giới, trong đó mỗi quốc gia cần có các giải pháp phù hợp để thúc đẩy việc chuyển đổi xanh, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguồn năng lượng, từng bước giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng hóa thạch… Trong các chính sách này không thể thiếu vai trò của chính sách thuế. Thực tiễn và kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy, chính sách thuế khi được thiết kế phù hợp có thể tạo ra động lực quan trọng góp phần thúc đẩy các hoạt động sản xuất, tiêu dùng có mức phát thải thấp, thúc đẩy các hoạt động sản xuất xanh, tiêu dùng xanh... Vai trò của chính sách thuế đối với việc thực hiện mục tiêu Net - Zero được thể hiện qua một số nội dung cơ bản như sau:

Thứ nhất, thông qua chính sách thuế, Nhà nước có thể tạo ra các động lực, “đòn bẩy” để điều chỉnh hành vi của nhà sản xuất, người tiêu dùng. Nhà nước có thể ban hành các chính sách ưu đãi thuế hoặc thực hiện đánh thuế ở mức thấp đối với việc sản xuất, tiêu dùng các sản phẩm ít gây ô nhiễm, có mức độ phát thải thấp để khuyến khích doanh nghiệp, người dân chuyển hướng sang việc sản xuất, tiêu dùng các loại hàng hóa này, đơn cử như ô tô chạy điện, xăng sinh học, điện gió, điện mặt trời. Chính sách thuế cũng có thể được sử dụng để tạo ra các “rào cản” về kinh tế đối với những hành vi sản xuất, tiêu dùng gây tổn hại cho môi trường, ví dụ thông qua việc đánh thuế cao đối với các sản phẩm, hàng hóa mà trong quá trình sản xuất sử dụng có phát thải lớn như xăng, dầu, than đá, phương tiện vận tải có dung tích xi lanh lớn.… 

Thứ hai, thông qua các chính sách ưu đãi thuế có thể hình thành nên hệ thống động lực để khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư vào các dự án sử dụng công nghệ tiên tiến, tiêu hao ít nhiên liệu, các dự án sử dụng năng lượng tái tạo... Khi có các biện pháp ưu đãi về thuế phù hợp, các dự án này sẽ có được khả năng cạnh tranh cao hơn, lợi nhuận hấp dẫn hơn để thu hút được các nhà đầu tư tham gia. 

Thứ ba, đối với Nhà nước, qua việc áp dụng các chính sách thuế phù hợp, ví dụ đánh thuế cao đối với nhiên liệu hóa thạch hay các sản phẩm mà việc tiêu dùng có mức phát thải cao, có thể góp phần tạo nguồn thu bền vững cho ngân sách nhà nước (NSNN). Qua đó, tạo điều kiện cho Nhà nước thực hiện được “mục tiêu kép”, vừa hạn chế được các hành vi phát thải khí nhà kính vừa bổ sung thêm nguồn lực cho NSNN. Số thu tăng thêm từ các sắc thuế này sẽ tạo ra dư địa cho Chính phủ trong việc chủ động thực hiện giảm gánh nặng thuế của các loại thuế truyền thống đánh vào lao động và vốn như thuế thu nhập cá nhân (TNCN), thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) để khuyến khích đầu tư vào các dự án có mức thải khí nhà kính thấp, các dự án sản xuất, sử dụng năng lượng tái tạo…

2. Thực trạng chính sách thuế để thực hiện mục tiêu Net - Zero ở Việt Nam

Tại Hội nghị thượng đỉnh Khí hậu trong khuôn khổ COP26 tại Anh vào tháng 11/2021, Việt Nam đã đưa ra tuyên bố cam kết đạt Net - Zero vào năm 2050. Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26/7/2022 phê duyệt “Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050”, trong đó cũng đã đặt ra mục tiêu “… giảm phát thải khí nhà kính theo mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, đóng góp tích cực và trách nhiệm với cộng đồng quốc tế trong bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất…”. Quốc hội cũng đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022, với nhiều biện pháp cải cách quan trọng để giảm phát thải khí nhà kính. 

Để thực hiện các mục tiêu về bảo vệ môi trường (BVMT), giảm mức phát thải, trong giai đoạn vừa qua, Việt Nam cũng đã xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiều chính sách thuế, đảm bảo phù hợp với điều kiện của đất nước trong từng thời kỳ. Trong đó, chính sách thuế TNDN, thuế BVMT, thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế nhập khẩu từng bước được hoàn thiện theo hướng chú trọng khuyến khích đầu tư vào các dự án tiết kiệm năng lượng, các dự án sản xuất năng lượng sạch, khuyến khích việc sản xuất, tiêu dùng các sản phẩm ít phát thải, đồng thời, hạn chế việc sản xuất, tiêu dùng các sản phẩm có mức phát thải lớn, gây ô nhiễm môi trường. 

Từ ngày 01/01/2012, với việc thực hiện Luật Thuế BVMT số 57/2010/QH12 đã đánh dấu sự thay đổi căn bản trong cách thức tiếp cận về sử dụng các công cụ kinh tế cho mục tiêu BVMT ở Việt Nam, trong đó đã quy định các mặt hàng khi tiêu dùng có mức phát thải khí nhà kính cao như xăng, dầu, mỡ nhờn và than đá vào đối tượng chịu thuế BVMT. Chính sách thuế TTĐB cũng đã được hoàn thiện theo hướng thu thuế cao đối với ô tô có dung tích xi lanh lớn, đồng thời, áp dụng mức thuế suất thuế TTĐB thấp hơn đối với ô tô chạy bằng điện, năng lượng sinh học hoặc bằng năng lượng kết hợp giữa nhiên liệu hóa thạch với các nhiên liệu khác. Gần đây, để thúc đẩy việc sử dụng xe điện, mức thuế suất thuế TTĐB đối với xe điện chạy pin đã được điều chỉnh giảm 3 - 12 điểm phần trăm trong 5 năm từ ngày 01/3/2022 đến ngày 28/02/2027. Theo đó, thuế suất thuế TTĐB của xe ô tô điện chạy bằng pin từ ngày 01/3/2022 đến hết ngày 28/02/2027 có mức thuế suất là 1%, 2% hay 3% tùy theo số chỗ ngồi; từ ngày 01/3/2027 mức thuế suất áp dụng là 4%, 7% và 11%, thấp hơn nhiều lần so với xe ô tô chở người chạy bằng nhiên liệu hóa thạch đang áp dụng là từ 15 - 150%. Cùng với đó, để hạn chế việc sử dụng xăng, Luật Thuế TTĐB cũng đã quy định mặt hàng xăng chịu thuế TTĐB với mức thuế suất 10%, đồng thời, quy định mức thuế suất ưu đãi đối với mặt hàng xăng E5 là 8%, E10 là 7% (thấp hơn so với mức thuế suất 10% áp dụng đối với mặt hàng xăng khoáng). Ngoài ra, xe ô tô điện chạy bằng pin còn được áp dụng chính sách miễn lệ phí trước bạ đến hết ngày 28/02/2027 (trong 5 năm).

Bên cạnh đó, theo quy định của Luật Thuế TNDN thì thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch được áp dụng thuế suất thuế TNDN 10% trong 15 năm (mức thuế suất phổ thông là 20%), miễn thuế TNDN tối đa không quá 4 năm và giảm 50% số thuế TNDN phải nộp tối đa không quá 9 năm tiếp theo; miễn thuế TNDN đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải của doanh nghiệp được cấp chứng chỉ giảm phát thải… Tại Luật Thuế TNDN số 67/2025/QH15 vừa được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2025, có hiệu lực từ 01/10/2025, đã bổ sung một số chính sách mới để trực tiếp hoặc gián tiếp thúc đẩy các hoạt động kinh tế ít phát thải ra môi trường như: Miễn thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải, chuyển nhượng tín chỉ carbon lần đầu sau khi phát hành của doanh nghiệp được cấp chứng chỉ giảm phát thải, tín chỉ carbon; thu nhập từ tiền lãi trái phiếu xanh; thu nhập từ chuyển nhượng trái phiếu xanh lần đầu sau khi phát hành; cho phép tính vào chi phí được trừ khi tính thuế TNDN đối với chi phí liên quan đến việc giảm phát thải khí nhà kính nhằm trung hoà carbon và Net - Zero.

Ngoài ra, theo quy định của pháp luật về đầu tư thì lĩnh vực “sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch” thuộc Danh mục ngành, nghề đặc biệt ưu đãi đầu tư; lĩnh vực “sản xuất... năng lượng từ sử dụng sức gió, ánh sáng mặt trời, thủy triều, địa nhiệt và các dạng năng lượng tái tạo khác” thuộc Danh mục ngành, nghề ưu đãi đầu tư. Theo đó, các dự án đầu tư trong các lĩnh vực này được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho dự án; được miễn hoặc giảm 50% số thuế sử dụng đất phi nông nghiệp phải nộp. Bên cạnh đó, pháp luật về thuế hiện hành cũng đã quy định áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu thấp đối với các loại nguyên liệu dùng để phối trộn xăng sinh học để góp phần giảm giá thành, thúc đẩy việc sử dụng xăng sinh học trong nước.

3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách thuế nhằm thực hiện mục tiêu Net - Zero ở Việt Nam

Để thực hiện các mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 mà Việt Nam đã đưa ra cùng với các công cụ kinh tế khác, chính sách thuế có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên, cải cách chính sách thuế nói chung, chính sách thuế để giảm mức phát thải luôn là vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Quá trình hoàn thiện chính sách thuế vì mục tiêu giảm mức phát thải trong nền kinh tế thời gian tới đây ở Việt Nam cần phải chú trọng đến các yêu cầu sau:

Đảm bảo phù hợp với đặc điểm và bối cảnh của đất nước trong từng giai đoạn phát triển cũng như các đặc trưng của hệ thống thuế ở Việt Nam. Hệ thống thuế của Việt Nam hiện nay đã có sự hiện diện khá đầy đủ các chính sách thuế có liên quan đến BVMT và thực hiện giảm mức phát thải, theo đó trước mắt, Việt Nam nên tập trung vào việc rà soát để hợp lý hóa các chính sách thuế đang có thay cho việc cố gắng đưa vào các chính sách thuế mới mà thực tế áp dụng có thể dẫn tới trùng lắp về đối tượng điều chỉnh mà các sắc thuế hiện có đã bao quát.

Đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống tổng thể cải cách thuế chung, không tạo ra các chí phí quá lớn cho người dân và doanh nghiệp, bao gồm cả chi phí trực tiếp và gián tiếp. Theo đó, các đề xuất chính sách cần được nghiên cứu và đánh giá tác động kỹ lưỡng các mặt có liên quan để một mặt vừa đạt được mục tiêu đề ra nhưng mặt khác vẫn tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và tiêu dùng của người dân phát triển. Ví dụ, việc chuyển đổi sang xe ô tô chạy điện là cần thiết nhưng cũng cần tính đến yếu tố chi phí của việc chuyển đổi này, sự sẵn có của các điều kiện có liên quan như hạ tầng trạm sạc, nguồn năng lược sạch để sử dụng cho việc sạc pin…

Hình thành được các “động cơ” phù hợp để thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng của doanh nghiệp, người dân để hướng đến mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính. Nếu mức thuế quá thấp thì doanh nghiệp và người dân sẽ không có nhu cầu chuyển sang việc sử dụng các sản phẩm thân thiện môi trường để giảm mức phát thải. Ngược lại nếu mức thuế quá cao chi phí cho việc giảm phát thải sẽ trở nên đắt đỏ, tạo ra gánh nặng tài chính quá mức cho các đối tượng liên quan, ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế, làm xói mòn lợi nhuận, ảnh hưởng đến việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. 

Thực hiện tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế và các thông lệ tốt về đánh thuế cho mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng xanh. Hiện nay, các chính sách thuế để thực hiện mục tiêu giảm phát thải được các quốc gia trên thế giới áp dụng rất đa dạng. Trong đó, có một số quốc gia xây dựng và áp dụng một số loại thuế liên quan đến môi trường mà Việt Nam chưa có, ví dụ như thuế năng lượng, thuế đối với xe cơ giới, thuế carbon, thuế phát điện đối với việc sản xuất và phát điện sử dụng nguồn nhiên liệu không tái tạo; thuế tiêu thụ năng lượng đối với các sản phẩm khí, xăng dầu và than đá. Tuy nhiên, không phải các chính sách thuế này đều có thể áp dụng ở Việt Nam. Khi tham khảo kinh nghiệm các nước, Việt Nam cần có các lựa chọn phù hợp với điều kiện, mức độ sẵn có của các yếu tố tiền đề trong nước cũng như sự phù hợp với kết cấu tổng thể của hệ thống thuế Việt Nam. 

Trên cơ sở bám sát các yêu cầu nêu trên, để góp phần thực hiện mục tiêu Net - Zero đã đưa ra, trong thời gian tới đây, Việt Nam cần tập trung vào các giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp rà soát, đánh giá, tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách thuế liên quan đến việc thực hiện các mục tiêu BVMT, giảm phát thải khí nhà kính, nhất là chính sách thuế BVMT, thuế TNDN và thuế TTĐB. Tổ chức thực hiện có hiệu quả Luật Thuế TTĐB số 66/2025/QH15 vừa được Quốc hội thông qua. Trong tương lai, nghiên cứu khả năng áp dụng chính sách thuế TTĐB đối với ô tô dựa vào mức độ phát thải như kinh nghiệm ở một số quốc gia. Đồng thời, nghiên cứu để mở rộng đối tượng chịu thuế BVMT và điều chỉnh khung mức thuế BVMT cho phù hợp với bối cảnh mới. 

Thứ hai, rà soát tổng thể hệ thống các chính sách ưu đãi về thuế, thu hẹp các chính sách ưu đãi không hiệu quả để dành sự ưu tiên lớn hơn cho các dự án giảm mức phát thải, các dự án sản xuất năng lượng sạch, năng lượng không tái tạo, đảm bảo phù hợp với các nguyên tắc chung của thương mại và đầu tư quốc tế, tôn trọng các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia và các tiêu chí thực hiện rõ ràng. 

Thứ ba, xây dựng và vận hành có hiệu quả thị trường carbon trong nước theo các yêu cầu đã được nêu tại Luật BVMT năm 2020. Nghiên cứu để có chính sách ưu đãi về thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng trái phiếu xanh, chứng chỉ giảm phát thải, tín chỉ carbon của cá nhân để thúc đẩy sự phát triển của thị trường này. Đồng thời, nghiên cứu để có các chính sách ưu đãi, hỗ trợ về thuế để thúc đẩy việc chuyển đổi phương tiện từ sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang sử dụng nhiên liệu xanh.

Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh việc cơ cấu lại nền kinh tế, tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm giảm phát thải, chuyển dịch sang sản xuất và tiêu dùng các loại hàng hóa có mức phát thải thấp. Thực hiện lồng ghép việc thực hiện các mục tiêu về Net - Zero với việc thực hiện các chiến lược, kế hoạch phát triển trung và dài hạn của ngành, lĩnh vực và địa bàn có liên quan./.

ThS. Trương Bá Tuấn

Nguồn: Trung tâm Thông tin kinh tế, tài chính và thống kê

Tài liệu tham khảo

1. McKinsey & Company (2022), Hoạch định lộ trình hoàn thành mục tiêu phát thải cacbon ròng bằng 0 của Việt Nam.

2. Nguyễn Viết Lợi và Henri Pierre Gebauer (2020), Công cụ tài chính cho tăng trưởng xanh ở Việt Nam, Nhà xuất bản Tài chính.

3. Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050”.