Nhìn lại tình hình thực hiện Chiến lược Tài chính của Việt Nam thời gian qua
13/08/2025 09:05
Nhằm xây dựng nền tài chính quốc gia phát triển bền vững, hiện đại và hội nhập, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, tăng cường khả năng chống chịu cho nền kinh tế trước các bất ổn, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia, ngày 21/3/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 368/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược Tài chính đến năm 2030 (Chiến lược). Nội dung Chiến lược mang tính hệ thống, định hướng bao quát, dài hạn và hiện thực hóa các chủ trương, định hướng phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Quá trình thực hiện Chiến lược đã đạt được kết quả khả quan, góp phần cân đối ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương được đảm bảo, nợ chính phủ được đảm bảo... Tuy nhiên, bối cảnh mới cũng đặt ra thách thức lớn đối với việc thực hiện Chiến lược, do đó, cần phải có giải pháp để khắc phục, góp phần thực hiện thành công Chiến lược đến năm 2030.
1. Tình hình thực hiện Chiến lược Tài chính
Giai đoạn 2021 - 2025, tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp và khó lường. Những năm đầu giai đoạn, dịch Covid-19 ảnh hưởng sâu rộng đến kinh tế, chuỗi cung ứng toàn cầu và làm gia tăng khoảng cách phát triển giữa các quốc gia; quan hệ thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc vẫn căng thẳng với các biện pháp áp thuế và kiểm soát công nghệ ngày càng siết chặt. Cùng lúc, xung đột chính trị Nga - Ukraine bùng nổ từ năm 2022 đã đẩy thế giới vào khủng hoảng năng lượng và lương thực, gia tăng bất ổn địa chính trị. Gần đây nhất, Hoa Kỳ thực hiện áp thuế đối ứng để bảo vệ lợi ích kinh tế, khiến cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc ngày càng gay gắt.
Trong bối cảnh đó, căn cứ các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra tại Chiến lược Tài chính đến năm 2030, Bộ Tài chính đã khẩn trương xây dựng kế hoạch hành động và chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện. Kết quả cụ thể một số nhiệm vụ, mục tiêu chính như sau:
Điều hành chính sách tài khóa chủ động, mở rộng hợp lý, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm; quyết liệt trong công tác thu, quản lý chặt chẽ, tiết kiệm chi thường xuyên ngân sách nhà nước (NSNN) để tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển. Trong đó:
Về thu NSNN: Mặc dù thực hiện các giải pháp miễn, giảm thuế với quy mô khoảng 900 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế, nhưng trong giai đoạn 2021 - 2024, thu NSNN hằng năm đều vượt dự toán [1]; tổng thu NSNN trung bình giai đoạn 2021 - 2024 đạt 18,1% GDP, cao hơn mục tiêu đề ra tại Chiến lược [2].
Về chi NSNN: Chi NSNN từng bước được cơ cấu lại theo hướng giảm tỷ trọng chi thường xuyên, dành nguồn lực cho đầu tư phát triển nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi NSNN tăng từ mức 28,1% giai đoạn 2016 - 2020 lên 32,5% ước thực hiện giai đoạn 2021 - 2024, cao hơn mục tiêu đề ra tại Chiến lược [3].
Với kết quả thu, chi NSNN như trên, cân đối ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương được đảm bảo. Năm 2024, bội chi NSNN thực hiện khoảng 3,4% GDP, giảm 10 nghìn tỷ đồng so dự toán (giảm bội chi ngân sách địa phương); trung bình giai đoạn 2021 - 2024 bội chi NSNN khoảng 3,1% GDP.
Kiểm soát hiệu quả nợ công, tái cơ cấu danh mục nợ theo hướng an toàn, bền vững. Thực hiện nợ công năm 2024 là 36 - 37% GDP; trung bình giai đoạn 2021 - 2024 khoảng 38,4% GDP. Cơ cấu nợ chính phủ được cải thiện theo hướng tích cực. Kỳ hạn phát hành trái phiếu chính phủ của danh mục nợ duy trì ổn định. Về cơ cấu, dư nợ trong nước tăng, nợ nước ngoài giảm dần, giảm thiểu rủi ro vay đảo nợ. Vị thế quốc gia được cải thiện, giảm sự phụ thuộc và các nguồn huy động từ bên ngoài.
Triển khai quyết liệt và đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp trong tổ chức thực hiện quản lý tài sản công; tăng cường công tác công khai, thanh tra, kiểm tra, siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính - NSNN. Kết quả sắp xếp trụ sở, nhà đất đã góp phần tạo lập quỹ đất để đầu tư xây dựng, phát triển các công trình công cộng, nhà ở xã hội; nguồn thu từ bán tài sản trên đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất của các bộ, ngành, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đạt hàng chục nghìn tỷ đồng là một nguồn lực lớn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Điều hành giá cả, thị trường bám sát tình hình thực tế, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, kiểm soát lạm phát, ổn định đời sống của người dân. Để kiểm soát lạm phát theo mục tiêu Quốc hội, Chính phủ đã đề ra, Bộ Tài chính đã chủ động tính toán, dự báo các yếu tố tác động và xây dựng các kịch bản, giải pháp điều hành giá, nhất là đối với các hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng thiết yếu. Nhờ vậy, giá cả thị trường trong nước cơ bản ổn định, tốc độ tăng CPI bình quân các năm giai đoạn 2021 - 2024 đều thấp hơn mục tiêu Quốc hội đề ra [4].
Triển khai nhiều biện pháp nhằm phát triển thị trường tài chính và dịch vụ tài chính ổn định, hoạt động an toàn, bền vững, hướng tới mục tiêu nâng hạng thị trường chứng khoán (TTCK) trong thời gian tới; có cơ cấu hợp lý, cân đối giữa thị trường tiền tệ với thị trường vốn, giữa thị trường cổ phiếu với thị trường trái phiếu và TTCK phái sinh. Trong năm 2024, TTCK có biến động với các phiên tăng, giảm đan xen, với xu hướng phục hồi so cuối năm trước. Tính đến ngày 27/12/2024, chỉ số VNIndex đạt 1.275,14 điểm, tăng 12,9% so với cuối năm 2023. Mức vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt gần 7,2 triệu tỷ đồng, tăng 21,2% so với cuối năm 2023, tương đương 70,4% GDP ước tính năm 2023; giá trị giao dịch bình quân đạt 21,1 nghìn tỷ đồng/phiên, tăng 19,9% so với bình quân năm trước.
Tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, triển khai cam kết trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) và các thỏa thuận thương mại song phương; tích cực tham gia các hoạt động hợp tác tài chính khu vực và đa phương trong khuôn khổ ASEAN, ASEAN+3, APEC... Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đã chủ động triển khai các giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp nước ngoài. Qua đó, đã bổ sung nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đất nước; nguồn lực tài chính xanh, tài chính cơ sở hạ tầng, tài chính chuyển đổi năng lượng, định giá carbon, tài chính rủi ro khí tượng thủy văn, tài chính mở và số hóa tài chính bao trùm. Bộ Tài chính cũng thực hiện đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ điện tử, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Mặc dù đạt được các kết quả như trên, nhưng việc thực hiện Chiến lược giai đoạn 2021 - 2024 vẫn còn một số hạn chế, khó khăn: Tiến độ một số khoản thu, sắc thuế, khu vực thu[5] đạt thấp; vẫn còn tình trạng gian lận, trốn lậu thuế, sai phạm trong việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công, thất thoát, lãng phí tại một số cơ quan, đơn vị; triển khai dự toán chi thường xuyên, phân bổ chi tiết kế hoạch và giải ngân vốn đầu tư công, chương trình mục tiêu quốc gia còn chậm...
2. Cơ hội và thách thức đặt ra trong việc thực hiện Chiến lược Tài chính trong bối cảnh quốc tế mới
Bối cảnh quốc tế mới, cơ hội và thách thức đặt ra
Nhìn chung tình hình kinh tế thế giới đang dần ổn định khi thương mại hàng hóa toàn cầu được cải thiện trở lại, áp lực lạm phát giảm dần, điều kiện thị trường tài chính tiếp tục được nới lỏng, thị trường lao động phục hồi tích cực. Đồng thời, các mô hình kinh tế mới như kinh tế chia sẻ, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn… đã và đang phát huy mạnh mẽ vai trò tích cực, tạo động lực tăng trưởng và đóng góp không nhỏ vào phát triển bền vững bằng cách tối ưu hóa sử dụng tài nguyên, giảm thiểu lãng phí và tác động môi trường, tạo ra giá trị kinh tế.
Mặc dù vậy, những năm tới, kinh tế thế giới được dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường với nhiều yếu tố rủi ro, bất định. Xung đột quân sự tiếp tục leo thang, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra ngày càng gay gắt, nhiều quốc gia tăng cường chính sách bảo hộ thương mại, nợ công và thâm hụt ngân sách gia tăng, sự tụt dốc của một số nền kinh tế lớn, chuỗi cung ứng toàn cầu đứt gãy cục bộ đã tác động đến hòa bình, ổn định và tăng trưởng kinh tế thế giới. Cùng với đó, việc ông Donald Trump tái đắc cử sau cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ cũng là một sự kiện chính trị quan trọng, có ảnh hưởng lớn tới kinh tế thế giới bởi những chính sách sẽ được thực hiện; trong đó, nổi bật là chính sách tăng mạnh thuế nhập khẩu của Hoa Kỳ[6]. Ngoài ra, thiên tai, thời tiết cực đoan ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của dân cư và phát triển kinh tế - xã hội tại nhiều quốc gia.
Bối cảnh trong nước, cơ hội và thách thức
Dưới sự lãnh đạo của Đảng; sự đồng hành của Quốc hội; sự chỉ đạo, điều hành chủ động, linh hoạt, quyết liệt, hiệu quả của Chính phủ… tình hình kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục xu hướng phục hồi rõ nét, tăng trưởng khởi sắc dần qua từng tháng, từng quý, lạm phát thấp hơn mức mục tiêu, các cân đối lớn được đảm bảo, kết quả trên nhiều lĩnh vực quan trọng đạt và vượt mục tiêu đề ra, là điểm sáng về tăng trưởng kinh tế trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, cũng còn nhiều rủi ro, thách thức đối với kinh tế Việt Nam: (i) Xuất khẩu phục hồi trong năm 2024 dự kiến sẽ chậm lại trong năm 2025 và tiếp tục giảm trong năm 2026 do dự báo tăng trưởng kinh tế chậm lại trong ngắn hạn ở các đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam - Trung Quốc và Hoa Kỳ - và do viễn cảnh bất định về thương mại toàn cầu trong điều kiện dự kiến có sự chuyển dịch về chính sách thương mại. Ngoài ra, căng thẳng thuế quan sẽ làm giảm khả năng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ thời gian tới do thuế nhập khẩu tăng; (ii) Nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng do căng thẳng thương mại và địa chính trị giữa các quốc gia tiếp tục tạo sức ép lên giá dầu và giá nguyên liệu đầu vào; (iii) Rủi ro tỷ giá do sự mạnh lên của đồng USD [7]; xu hướng này còn được củng cố bởi những biện pháp thuế quan đối với hàng nhập khẩu và chính sách hỗ trợ tài khóa sẽ kéo rủi ro lạm phát quay trở lại, khiến Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (FED) thận trọng hơn với lộ trình giảm lãi suất; (iv) Nhu cầu trong nước phục hồi yếu với tăng trưởng tiêu dùng đang có dấu hiệu chậm lại [8].
3. Một số đề xuất giải pháp để thực hiện Chiến lược Tài chính trong bối cảnh mới
Trong thời gian tới, để góp phần thực hiện thắng lợi toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu đã đề ra tại Chiến lược, tạo nền tảng cho đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, ngành Tài chính sẽ tập trung vào một số giải pháp sau:
Tập trung thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ, đặc biệt là việc triển khai 04 nghị quyết trụ cột[9] nhằm phát huy hiệu quả các cơ chế, chính sách, quy định mới, đột phá đã ban hành nhằm tháo gỡ và giải phóng nguồn lực của nền kinh tế.
Theo dõi sát tình hình kinh tế thế giới và trong nước, gắn với việc nâng cao chất lượng công tác phân tích, dự báo; chủ động xây dựng các phương án, giải pháp đồng bộ, toàn diện để có phản ứng chính sách kịp thời, linh hoạt, hiệu quả, nhất là đối với những vấn đề mới phát sinh, vấn đề khó, nhạy cảm. Phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm trọng điểm với chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả và các chính sách vĩ mô khác nhằm giữ vững nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
Đối với hoàn thiện thể chế, cần đẩy nhanh việc rà soát các vướng mắc, chồng chéo trong các quy định pháp luật liên quan đến tài chính - ngân sách, đầu tư công, vay vốn ODA, ưu đãi nước ngoài…; cần ưu tiên việc tạo thuận lợi cho huy động nguồn lực và giải ngân đầu tư công; đẩy mạnh phân cấp phân quyền; hoàn thiện và sớm trình Quốc hội thông qua các dự án luật.
Thực hiện nghiêm pháp luật về thu, quản lý thu NSNN, tập trung thực hiện các giải pháp tăng cường quản lý thu NSNN, phấn đấu hoàn thành dự toán thu được giao ở mức cao nhất đảm bảo nguồn lực phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Cải cách, hoàn thiện thể chế thu NSNN đảm bảo tính minh mạch, công bằng, hướng đến mở rộng cơ sở thu theo xu hướng chung của các nước trên thế giới nhằm tăng cường nguồn thu. Rà soát các chính sách ưu đãi về thuế, tập trung ưu đãi thuế vào một số ngành, lĩnh vực trọng điểm nhằm thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới, nhất là chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và các ngành, lĩnh vực mới, công nghệ cao. Tập trung nâng cao hiệu quả quản lý thuế thông qua các giải pháp đẩy mạnh chuyển đổi số, điện tử hóa; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo trong hỗ trợ người nộp thuế, quản lý rủi ro…
Nâng cao hiệu quả quản lý, phân bổ, sử dụng NSNN, tài sản công, tiết kiệm chi, chống lãng phí, chi NSNN gắn với các mục tiêu về tái cơ cấu nền kinh tế, phát triển bền vững. Rà soát lại nhu cầu chi và cơ cấu lại chi NSNN hướng đến việc xây dựng cơ cấu chi NSNN phù hợp hơn, gắn chính sách chi NSNN với các định hướng phát triển trung và dài hạn, khắc phục tình trạng phân tán trong phân bổ nguồn lực NSNN. Tiếp tục thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên, dành nguồn lực cho đầu tư phát triển; tiếp tục cơ cấu lại đầu tư công, nhất là vốn vay nước ngoài, bảo đảm thực chất, hiệu quả. Xử lý nghiêm hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực, gây thất thoát, lãng phí trong đầu tư công. Tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm các vi phạm trong đấu thầu, mua sắm tài sản công, quản lý, sử dụng tài sản, NSNN.
Kiểm soát hiệu quả bội chi NSNN, nợ công, các nghĩa vụ nợ dự phòng. Quốc hội đặt ra mục tiêu trần nợ công hằng năm trong giai đoạn 2021 - 2025 không quá 60% GDP, ngưỡng cảnh báo là 55% GDP; trần nợ chính phủ không quá 50% GDP, ngưỡng cảnh báo là 45% GDP; trần nợ nước ngoài không quá 50% GDP, ngưỡng cảnh báo là 45% GDP [10]. Các ngưỡng nợ công này được tính toán cơ bản hợp lý trên cơ sở tình hình tài chính quốc gia. Song, trong điều kiện bình thường của nền kinh tế, cũng như nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển “đột phá” nền kinh tế cho thời kỳ mới thì ngưỡng nợ công cần dao động quanh ngưỡng của Quốc hội đặt ra hoặc chấp nhận vượt ngưỡng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do đó, cần đánh giá, dự báo rủi ro về khả năng vay, sử dụng vốn vay và trả nợ; các khoản vay mới vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài chỉ sử dụng cho chi đầu tư phát triển, không sử dụng cho chi thường xuyên. Thực hiện nguyên tắc vay trong nước là cơ bản, quyết định, kết hợp chặt chẽ, hiệu quả với nguồn vay nước ngoài là quan trọng. Việc huy động vốn vay đáp ứng nhu cầu của NSNN trong từng thời kỳ với chi phí vay hợp lý, phù hợp với mức độ rủi ro của khoản vay, đảm bảo khả năng trả nợ, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, thúc đẩy phát triển thị trường vốn trong nước.
Ngoài ra, tiếp tục tăng cường công tác quản lý giá cả, thị trường; đảm bảo sự vận hành ổn định, an toàn của thị trường tài chính và dịch vụ tài chính, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đồng thời, tích cực, chủ động hội nhập tài chính quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại./.
Nguồn: Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Tài chính (2024), “Báo cáo Đánh giá công tác điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2024, triển khai nhiệm vụ năm 2025”, Tài liệu phục vụ Hội nghị tổng kết ngành Tài chính ngày 31/12/2024.
2. Các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ.
3. Các báo cáo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á...
* Chú thích:
[1] Năm 2021 vượt 233 nghìn tỷ đồng; 2022 vượt 406 nghìn tỷ đồng; 2023 vượt 133 nghìn tỷ đồng; 2024 vượt 315 nghìn tỷ đồng.
[2] Tỷ lệ huy động vào NSNN giai đoạn 2021 - 2025 bình quân không thấp hơn 16% GDP.
[3] Tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi NSNN bình quân khoảng 28% cho giai đoạn 2021 - 2025.
[4] Tốc độ tăng CPI bình quân các năm 2021, 2022, 2023 và 2024 lần lượt là: 1,84%, 3,15%, 3,25% và 3,63%.
[5] Tiền sử dụng đất, thu cổ tức lợi nhuận sau thuế, thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước.
[6] Ngày 03/4/2025, Hoa Kỳ đã đưa ra chính sách thương mại mới và tăng mức thuế nhập khẩu tương đối lớn với các quốc gia trên thế giới đặc biệt là áp thuế đến 46% đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Việc Hoa Kỳ tăng thuế gây ra tác động tiêu cực lan tỏa đến kinh tế thế giới, làm triển vọng kinh tế, đầu tư và thương mại thế giới sụt giảm, từ đó có những ảnh hưởng tiêu cực, tạo ra nhiều thách thức và khó khăn đối với Việt Nam.
[7] Trong quý I/2025, mặc dù đồng USD có xu hướng yếu đi trên thị trường thế giới nhưng nhìn chung vẫn tăng so với cùng kỳ và tỷ giá USD/VND trong nước vẫn duy trì xu hướng tăng. Xu hướng tăng giá của đồng USD ở Việt Nam và sự biến động trên thị trường tài chính toàn cầu có thể gây ra rủi ro gia tăng chi phí sản xuất. Đồng USD tăng giá ở Việt Nam có thể tạo áp lực lên tỷ giá USD/VND, dẫn đến chi phí nhập khẩu tăng, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu.
[8] Năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng chỉ tăng 5,9%, thấp hơn cùng kỳ năm 2023.
[9] Nghị quyết số 57-NQ/TW năm 2024 về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sang tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW năm 2025 về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW năm 2025 về đổi mới công tác xây dựng và thực hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW năm 2025 về phát triển kinh tế tư nhân.
[10] Theo Nghị quyết số 23/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội về Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021 - 2025.