Kinh tế vĩ mô 9 tháng đầu năm 2025 và giải pháp thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025
15/10/2025 14:19
Tình hình kinh tế Việt Nam 9 tháng đầu năm 2025 cho thấy những kết quả tích cực về tăng trưởng, nhưng vẫn đối mặt với nhiều rủi ro từ bối cảnh toàn cầu như chiến tranh thương mại và áp lực tỷ giá. Mặc dù thị trường chứng khoán (TTCK) và tín dụng tăng trưởng, các doanh nghiệp nội địa vẫn gặp khó khăn do chi phí cao và cạnh tranh gay gắt. Dựa trên những phân tích này, bài viết đưa ra ba kịch bản dự báo tăng trưởng GDP cho năm 2025, với kịch bản cơ sở đạt 8,01%, kịch bản cao đạt 8,31% và kịch bản thấp là 7,72%. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, bài viết đề xuất một số giải pháp trọng tâm về ổn định vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và thúc đẩy đầu tư.
1. Tổng quan kinh tế thế giới và tác động tới Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2025
1.1. Tăng trưởng toàn cầu chậm lại, tạo áp lực lên mục tiêu tăng trưởng trong nước
Báo cáo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) ngày 23/9/2025 đã nâng dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2025 lên 3,2% (so với mức cũ là 2,9%), nhưng vẫn giữ nguyên triển vọng năm 2026 ở mức 2,9%. Điều này cho thấy sự phục hồi kinh tế còn chậm và tiềm ẩn rủi ro. Chỉ số quản lý thu mua (PMI) tháng 9/2025 giảm dần ở nhiều khu vực do chính sách thuế quan của Hoa Kỳ. PMI sản xuất của Hoa Kỳ đạt 52 điểm (giảm so với 53 điểm tháng 8/2025), trong khi khu vực Liên minh châu Âu (EU) giảm xuống 49,5 điểm. Đơn hàng sản xuất ở Nhật Bản cũng thu hẹp tháng thứ ba liên tiếp, ở mức 48,4 điểm. Ngược lại, hoạt động sản xuất tại Trung Quốc cải thiện với PMI ở mức 50,5 điểm sau nhiều tháng bị thu hẹp. Hoạt động thương mại toàn cầu cũng tiếp tục suy giảm, với chỉ số vận tải container giảm 15,34% trong tháng 9/2025 so với tháng 8/2025 và giảm 43,88% so với cùng kỳ năm trước.
Sự suy giảm niềm tin tiêu dùng của các đối tác thương mại lớn của Việt Nam có thể tác động tiêu cực đến xuất khẩu. Diễn biến phức tạp ở khu vực Trung Đông cũng tiềm ẩn rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, gây áp lực lên chi phí sản xuất và vận tải của các doanh nghiệp trong nước.
1.2. Lạm phát toàn cầu chưa đạt mục tiêu tại một số nền kinh tế lớn, áp lực chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED) lên tỷ giá trong nước còn lớn dù FED giảm lãi suất chính sách 25 điểm phần trăm
Mặc dù lạm phát toàn cầu có xu hướng giảm, nhưng vẫn chưa đạt mức mục tiêu ở một số nền kinh tế lớn. Lạm phát toàn phần của các nền kinh tế G20 được dự báo giảm từ 3,4% năm 2025 xuống 2,9% năm 2026, trong khi lạm phát lõi chỉ giảm nhẹ từ 2,6% xuống 2,5%. Tại Hoa Kỳ, lạm phát tháng 8/2025 tăng nhẹ lên 2,9%. Tình trạng này khiến FED phải tiếp tục chu kỳ nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng.
Vào ngày 17/9/2025, FED đã hạ lãi suất tham chiếu thêm 25 điểm cơ bản, đưa lãi suất cơ bản xuống còn 4 - 4,25%. Về lý thuyết, động thái này có thể giảm áp lực lên tỷ giá USD/VND. Tuy nhiên, thị trường lại phản ứng không tích cực: Chỉ số giá đồng USD (DXY) tăng 1 điểm lên 98,3 điểm và lợi suất trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ kỳ hạn 10 năm tăng 17 điểm phần trăm lên 4,17%/năm.
Việc FED giảm lãi suất chậm và ở mức thấp tiếp tục tác động tiêu: (i) Lãi suất trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ cao hơn đã thúc đẩy dòng vốn USD ngắn hạn rời khỏi Việt Nam để tìm kiếm lợi nhuận tốt hơn. Tại Việt Nam, khoản mục Đầu tư ròng khác trong bảng cân đối BOP từ năm 2022 đến quý I/2025 là âm 66 tỷ USD, và riêng quý II/2025 là âm 9,369 tỷ USD, cao hơn thặng dư thương mại là 8,7 tỷ USD; (ii) Lãi suất cao của FED và dòng vốn chảy ra đã tạo áp lực lớn lên tỷ giá USD/VND; (iii) Nhu cầu vàng vật chất tăng. Trong tháng 9/2025, giá vàng trong nước đạt đỉnh, dao động trong khoảng 133,80 - 135,80 triệu đồng/lượng. Chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới đạt 14 - 15 triệu đồng/lượng vào ngày 26/9/2025, mức chênh lệch này đã kéo dài trong hai năm.
1.3. Thị trường tài chính toàn cầu tăng trưởng mạnh, nhưng dòng tiền đã gia tăng trú ẩn ở vàng
Thị trường chứng khoán toàn cầu tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ, liên tiếp thiết lập các kỷ lục mới. Theo Trading Economics, các chỉ số như S&P 500, Nikkei, FTSE 100, Shanghai Composite và Euro Stoxx 50 đều ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng so với đầu năm. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có dấu hiệu chậm lại, bất ổn địa chính trị và rủi ro thương mại, nhu cầu trú ẩn vào vàng dự kiến sẽ tiếp tục tăng. Giá vàng thế giới tăng bình quân, đạt mức 3.585 - 3.650 USD/ounce vào ngày 26/9/2025. Vàng vẫn được xem là một công cụ bảo toàn tài sản hiệu quả về dài hạn.
Sự biến động mạnh của thị trường tài chính và giá vàng toàn cầu có thể ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế Việt Nam. Dòng vốn ngoại, bao gồm cả vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp, có thể trở nên không ổn định nếu niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường toàn cầu suy giảm. Tương tự, sự biến động của giá vàng thế giới cũng trực tiếp tác động đến thị trường vàng trong nước và tâm lý của người dân, gây ra những thách thức trong việc quản lý vĩ mô.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng và Thị trưởng Khu tài chính London Alastair King đồng hành cùng Việt Nam xây dựng Trung tâm Tài chính Quốc tế. Nguồn: Cổng thông tin điện tử - Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước
2. Tình hình kinh tế - tài chính trong nước
2.1. Những kết quả đạt được
Tăng trưởng đạt kết quả tích cực
Về tăng trưởng GDP quý III/2025, nền kinh tế ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng, cao thứ hai trong giai đoạn 2011 - 2025, phản ánh sự phục hồi mạnh mẽ và đồng đều của cả 3 khu vực kinh tế. GDP quý III/2025 ước tăng 8,22% so với cùng kỳ, chỉ thấp hơn mức tăng 14,38% của năm 2022. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,74%, đóng góp 5,05% vào tổng tăng trưởng; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,46%, đóng góp 46,47%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,98%; khu vực dịch vụ tăng 8,54%, đóng góp 48,48%. Về cấu trúc sử dụng GDP, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,02%, đóng góp 59,78%; tích lũy tài sản tăng 7,08%, đóng góp 39,03%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 15,68%; nhập khẩu tăng 15,84%; chênh lệch xuất nhập khẩu đóng góp 1,19%.
Các thành phần tổng cầu đều cho thấy sự tăng trưởng tích cực, đặc biệt là trong quý III, góp phần thúc đẩy tăng trưởng GDP 7,84% trong 9 tháng đầu năm 2025: (i) Tiêu dùng trong nước: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9/2025 ước tính tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước. Mức tăng trưởng mạnh mẽ này, đặc biệt là khu vực dịch vụ tăng 8,48% trong 9 tháng, khẳng định sự phục hồi mạnh mẽ của nhu cầu tiêu dùng nội địa; (ii) Thương mại quốc tế: Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trong 9 tháng đầu năm 2025 đạt 680,66 tỷ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu tăng 16,0% và nhập khẩu tăng 18,8%. Cán cân thương mại hàng hóa tiếp tục xuất siêu 16,82 tỷ USD; (iii) Đầu tư: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện 9 tháng đầu năm 2025 ước đạt 18,8 tỷ USD, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục thu hút FDI lớn nhất, chiếm 58,8% tổng vốn đăng ký mới, tạo động lực tăng trưởng mạnh mẽ. Giải ngân vốn đầu tư công cải thiện đáng kể. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) 9 tháng đầu năm ước đạt 440,4 nghìn tỷ đồng, tăng 4,5% về tỷ lệ so với cùng kỳ năm 2024 (cao hơn 132,6 nghìn tỷ đồng về số tuyệt đối), cho thấy nỗ lực thúc đẩy đầu tư công.
Lạm phát duy trì ổn định
Lạm phát tại Việt Nam vẫn được duy trì ở mức ổn định và dưới mục tiêu Quốc hội đề ra. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2025 tăng 0,42% so với tháng trước và tăng 3,38% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 9 tháng đầu năm 2025, CPI tăng 3,27% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản (loại trừ các nhóm hàng thiết yếu có biến động mạnh như lương thực, thực phẩm, năng lượng) bình quân 9 tháng đầu năm 2025 tăng 3,19%, thấp hơn mức tăng của CPI chung (3,27%), cho thấy áp lực giá chủ yếu đến từ các yếu tố cung cấp và điều chỉnh giá hành chính (như y tế, giáo dục). Điều này khẳng định hiệu quả trong công tác điều hành vĩ mô của Chính phủ.
Thị trường tài chính chuyển biến tích cực
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tính đến ngày 22/9/2025, các chỉ số VN-Index, HNX-Index, Upcom-Index tăng lần lượt 29%, 20,6% và 15,9% so với cuối năm 2024. Tổng vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 9,05 triệu tỷ đồng, tương đương 78,7% GDP năm 2024 và tăng 26,2% so với cuối năm 2024. Giá trị giao dịch bình quân thị trường cổ phiếu 9 tháng đầu năm đạt 29 nghìn tỷ đồng/phiên, tăng 38,4% so với trung bình năm 2024. Việt Nam đã trở thành thị trường có thanh khoản cao nhất khu vực ASEAN. Thị trường được hỗ trợ bởi kỳ vọng nâng hạng, thông tin kinh tế vĩ mô tích cực và kết quả kinh doanh quý II khả quan của các doanh nghiệp niêm yết. Dù khối ngoại bán ròng khoảng 95 nghìn tỷ đồng cổ phiếu (xấp xỉ 3,6 tỷ USD) trong 9 tháng đầu năm 2025 để chốt lời và tái cơ cấu danh mục, dòng tiền của nhà đầu tư trong nước đã cân đối được dòng vốn này. Theo dự báo của một số công ty chứng khoán, khi được nâng hạng, thị trường có thể đón nhận từ 4 - 6 tỷ USD vốn ngoại.
Thị trường trái phiếu: (i) Về thị trường trái phiếu chính phủ, lũy kế đến ngày 30/9/2025, Kho bạc Nhà nước đã phát hành 255.689 tỷ đồng, đạt 51,1% kế hoạch cả năm (500 nghìn tỷ đồng). Kỳ hạn phát hành bình quân trái phiếu chính phủ là 9,97 năm, giảm 1,15 năm so với bình quân cả năm 2024. Lãi suất phát hành bình quân đạt 3,01%/năm, tăng 0,49%/năm so với bình quân cả năm 2024. Dư nợ trái phiếu chính phủ đến ngày 30/9/2025 đạt 2,53 triệu tỷ đồng, tương đương 22,0% GDP năm 2024; (ii) Về thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), từ đầu năm đến 26/9/2025, thị trường TPDN riêng lẻ ghi nhận những kết quả tích cực với 74 doanh nghiệp phát hành thành công khoảng 362,0 nghìn tỷ đồng, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó các tổ chức tín dụng (TCTD) chiếm tỷ trọng lớn nhất với 70,4%, tiếp theo là doanh nghiệp bất động sản với 21,5% và các lĩnh vực khác chiếm 8,1% còn lại. Khối lượng mua lại TPDN trước hạn đạt 209,8 nghìn tỷ đồng (tăng 52,6% so với cùng kỳ), trong khi dư nợ TPDN riêng lẻ tính đến ngày 26/9/2025 đạt khoảng 1,11 triệu tỷ đồng, tương đương 9,66% GDP năm 2024 và chiếm 6,3% dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế. Nhà đầu tư chính trên thị trường sơ cấp là các tổ chức trong nước chiếm 99,6%, nhà đầu tư cá nhân chỉ chiếm 4%.
Tăng trưởng tín dụng: Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến thời điểm ngày 25/9/2025, tăng trưởng tín dụng của toàn nền kinh tế đạt 13% so với cuối năm 2024. Mức tăng này cao hơn đáng kể so với cùng thời điểm năm trước (tăng 8,09%). Mức tăng trưởng này diễn ra trong bối cảnh NHNN đã nới lỏng chính sách tiền tệ và thực hiện điều hành tín dụng linh hoạt để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao (13,0%) cùng với sự cải thiện đáng kể trong giải ngân đầu tư công là những yếu tố tích cực, tạo nền tảng vững chắc cho mục tiêu tăng trưởng GDP cả năm 2025.
2.2. Những khó khăn, tồn tại
Mặc dù có những dấu hiệu phục hồi tích cực trong 9 tháng đầu năm 2025, nền kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn và rủi ro tiềm ẩn. Các yếu tố từ cả bên ngoài và bên trong đang tạo ra những thách thức đáng kể đối với sự ổn định và tăng trưởng bền vững.
Các doanh nghiệp nội địa đang gặp nhiều khó khăn
Về mặt bên ngoài, doanh nghiệp phải đối mặt với chiến tranh thương mại - công nghệ, điều này thúc đẩy giá cả tăng và hạn chế xuất khẩu. Một rủi ro lớn khác là dư cung hàng hóa từ Trung Quốc, xuất phát từ chiến tranh thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc và nhu cầu nội địa yếu. Để giải phóng hàng tồn kho, Trung Quốc đã phát triển các sàn giao dịch hàng hóa điện tử và hệ thống logistics hiệu quả, giảm chi phí vận chuyển ở mức thấp nhất. Điều này tạo ra thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, khi họ mất lợi thế cạnh tranh về giá, mẫu mã và chi phí logistics ngay tại thị trường nội địa. Bên trong, các doanh nghiệp cũng gặp phải nhiều vướng mắc pháp lý chậm được giải quyết, chi phí đầu vào cao (như giá điện và logistics) và đơn hàng thiếu bền vững, dẫn đến biên lợi nhuận giảm.
Rủi ro lạm phát còn lớn
Bên ngoài, các xung đột địa chính trị ở khu vực Trung Đông và Nga - Ukraine vẫn là yếu tố rủi ro chính. Đặc biệt, sự điều chỉnh chính sách tiền tệ (như việc FED hạ lãi suất tham chiếu thêm 25 điểm cơ bản vào ngày 17/9/2025 xuống mức 4 - 4,25%) đang gây áp lực lên tỷ giá (tăng 3,5% so với đầu năm) và thị trường ngoại hối. Các yếu tố này có thể thúc đẩy giá nhiên liệu và chi phí vận tải tăng cao, gây ra rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng.
Trong nước, lạm phát gia tăng do nhiều yếu tố: (i) Lộ trình thị trường hóa các dịch vụ công: Lạm phát CPI bình quân 9 tháng tăng 3,27%, trong đó nhóm y tế và trợ giúp xã hội tăng mạnh nhất (18,21%) và giáo dục tăng 1,6% (do điều chỉnh học phí), phản ánh lộ trình tính giá đầy đủ chi phí; (ii) Tín dụng và tổng phương tiện thanh toán tiếp tục tăng trưởng nhanh (đến 25/9/2025, tăng trưởng tín dụng của toàn nền kinh tế lần lượt là 13% và 10,61% so với cuối năm 2024); (iii) Giá vật liệu xây dựng cơ bản ổn định nhưng nhu cầu thuê nhà cho năm học mới và tiêu thụ điện nước cao đã đẩy nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,14% (bình quân 9 tháng). Ngoài ra, sự khan hiếm nguyên vật liệu xây dựng và hoạt động sản xuất sôi động hơn (do giải ngân đầu tư công) tạo áp lực tăng giá vào cuối năm.
Thách thức trong giải ngân đầu tư công
Mặc dù giải ngân vốn đầu tư công đã cải thiện đáng kể trong 9 tháng đầu năm 2025 (ước đạt 440,4 nghìn tỷ đồng), việc đạt mục tiêu giải ngân 100% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao vẫn còn nhiều thách thức. Các điểm nghẽn chính bao gồm: Công tác giải phóng mặt bằng và chậm trễ trong lập, phê duyệt quy hoạch, tình trạng thiếu hụt vật liệu xây dựng như cát, đất đắp và đá vẫn tồn tại, ảnh hưởng đến tiến độ các dự án hạ tầng lớn, thủ tục đầu tư và đấu thầu phức tạp và kéo dài, cùng với năng lực quản lý của chủ đầu tư và nhà thầu còn hạn chế, tình trạng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy (đặc biệt là sau khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, giảm 366 cơ quan chuyên môn cấp tỉnh) đã khiến một số dự án phải tạm dừng hoặc điều chỉnh, gây khó khăn trong việc tháo gỡ vướng mắc phát sinh từ thực tiễn.
Sự kiên quyết trong chỉ đạo và nỗ lực tăng cường phân cấp, phân quyền của Chính phủ là yếu tố then chốt để tháo gỡ các vướng mắc, tạo đột phá cho dòng vốn đầu tư này trong quý IV/2025.
Áp lực gia tăng trên thị trường ngoại hối
Việc FED kéo dài chu kỳ giảm lãi suất chính sách của đồng USD đang tạo thêm áp lực lớn lên thị trường ngoại hối của Việt Nam. Kể từ khi FED tăng lãi suất vào năm 2022 đến quý II/2025, dòng vốn USD rời khỏi Việt Nam từ khoản mục lỗi và sai sót và đầu tư ròng khác lên tới âm 152 tỷ USD. Trong nước, cung tiền tăng mạnh nhằm đáp ứng mục tiêu tăng trưởng tín dụng 20%, nhưng điều này cũng đang tạo áp lực lên tỷ giá khi cung nội tệ vượt quá cung ngoại tệ.
Thị trường chứng khoán Việt Nam có dấu hiệu thiếu bền vững
Do nhà đầu tư nước ngoài (có tổ chức) bán ròng khối lượng lớn cổ phiếu. Thị trường được nâng đỡ chủ yếu bởi nhà đầu tư tư nhân, với 1,2 triệu tài khoản mới được mở trong 7 tháng đầu năm 2025. Sự mất cân bằng này cho thấy rủi ro tiềm ẩn, khi một bộ phận lớn dòng vốn có tổ chức đang rút khỏi thị trường, phụ thuộc quá nhiều vào dòng tiền của các nhà đầu tư nhỏ lẻ.
3. Triển vọng, dự báo
Dựa trên giả thiết về bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính xây dựng 3 kịch bản dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2025: Kịch bản cơ sở (khả năng xảy ra cao); kịch bản cao (giả định các điều kiện quốc tế thuận lợi hơn); kịch bản thấp (nhiều yếu tố bất ổn bên ngoài).
3.1. Kịch bản cơ sở
Trong kịch bản này, GDP Việt Nam năm 2025 được dự báo đạt 8,01%, cao hơn mức tăng 7,09% của năm 2024. Tăng trưởng quý IV ước tính đạt 8,44% (quý III đạt 8,42%).
Phân tích động lực
Khu vực sản xuất: Công nghiệp - Xây dựng tiếp tục giữ vai trò dẫn dắt với mức tăng 9,25% cả năm (9,93% quý IV). Khu vực cầu: Tiêu dùng cuối cùng dự báo tăng 7,44% cả năm. Tích lũy tài sản (đầu tư) tăng 8,25% cả năm. Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ được dự báo tăng chậm lại trong quý IV so với các quý đầu năm.
Cơ sở lập luận
Đà tăng trưởng kinh tế tăng tốc trong quý III và quý IV/2025 chủ yếu nhờ đầu tư công tăng tốc và vốn FDI tiếp tục cải thiện. Niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp được củng cố, thể hiện qua số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tăng (209,2 nghìn doanh nghiệp mới/tái gia nhập trong 8 tháng, tăng 24,5% so với cùng kỳ). Chỉ số PMI ngành chế biến, chế tạo vẫn đạt ngưỡng mở rộng trên 50 (50,4 trong tháng 8). IMF (9/2025) nhận định việc thực hiện thành công các dự án cơ sở hạ tầng có thể thúc đẩy đáng kể tăng trưởng. Tuy nhiên, rủi ro vẫn hiện hữu khi xuất nhập khẩu đã có dấu hiệu “hụt hơi” trong nửa đầu tháng 9 do ảnh hưởng của chính sách thuế đối ứng từ Hoa Kỳ.
3.2. Kịch bản cao
Trong kịch bản này, GDP của Việt Nam năm 2025 được dự báo đạt 8,31% (quý IV/2025 đạt 9,23%).
Phân tích động lực
Khu vực sản xuất: Công nghiệp - Xây dựng tăng trưởng mạnh 9,54% cả năm (10,76% quý IV/2025). Khu vực dịch vụ cũng đạt mức tăng trưởng khá.
Khu vực cầu: Tiêu dùng cuối cùng tăng tốc lên 7,72% cả năm. Tích lũy tài sản tăng mạnh, đạt 8,62% cả năm. Xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ trong quý IV/2025 tiếp tục tăng tốc.
Cơ sở lập luận
Kịch bản cao diễn ra nhờ các biện pháp quyết liệt của Chính phủ, đặc biệt trong việc thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công đạt sát mức 100% kế hoạch. Các cân đối vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định, củng cố niềm tin nhà đầu tư. Về bối cảnh quốc tế, kinh tế Trung Quốc phục hồi tốt hơn (IMF nâng dự báo tăng trưởng lên 4,8%), qua đó thúc đẩy xuất, nhập khẩu của Việt Nam với đối tác lớn này.
3.3. Kịch bản thấp
Trong kịch bản này, GDP của Việt Nam năm 2025 được dự báo đạt 7,72% (quý IV/2025 dự kiến đạt 7,85%).
Phân tích động lực
Khu vực sản xuất: Công nghiệp - Xây dựng dự báo tăng 8,68% cả năm (8,91% quý IV/2025), giảm tốc so với các kịch bản trên. Khu vực cầu: Tiêu dùng cuối cùng đạt 7,19% cả năm. Tích lũy tài sản đạt 7,93% cả năm. Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ quý IV/2025 tăng chậm lại.
Cơ sở lập luận
Kịch bản thấp xảy ra khi thuế đối ứng của Hoa Kỳ làm suy giảm đơn hàng và khiến chuỗi cung ứng tái cấu trúc thận trọng. Giải ngân đầu tư công khó đạt mục tiêu tuyệt đối. Chỉ số PMI có thể giảm về sát ngưỡng mở rộng và tín dụng bị điều hành thận trọng hơn do rủi ro từ thị trường bất động sản/TPDN. Đáng chú ý, nửa đầu tháng 9/2025 đã ghi nhận tín hiệu “hụt hơi” khi xuất khẩu chỉ đạt 19,2 tỷ USD, khiến cán cân thương mại tạm thời thâm hụt 644,75 triệu USD. Tâm lý thận trọng của doanh nghiệp và hộ gia đình làm cho đà tiêu dùng và đầu tư trong quý IV/2025 kém sôi động.
4. Đề xuất một số giải pháp
Có thể thấy tình hình kinh tế vĩ mô cuối năm 2025 vẫn còn nhiều khó khăn. Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng 8,3 - 8,5%, Việt Nam cần thực hiện các giải pháp sau trong quý IV/2025:
Một là, kiên trì giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; đảm bảo cung ứng hàng hóa và kiểm soát giá cả, thị trường. Liên tục cập nhật các kịch bản về tăng trưởng, lạm phát, phối hợp chặt chẽ và hiệu quả, hài hòa các chính sách điều hành kinh tế vĩ mô nhằm duy trì sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế; có các giải pháp điều hành chính sách lãi suất, tỷ giá, tăng trưởng tín dụng phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Theo dõi chặt chẽ tình hình diễn biến của giá xăng dầu, năng lượng, đồng thời đảm bảo nguồn cung và mức giá phù hợp đối với các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống của nhân dân. Việc bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô là hết sức cần thiết, là điều kiện quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng cao trong nửa cuối năm 2025.
Hai là, hoàn thiện thể chế pháp luật nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Hoàn thiện đề án phát triển doanh nghiệp nhà nước, chính sách hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh khi vay vốn thông qua các quỹ tài chính nhà nước ngoài NSNN để thực hiện các dự án xanh, tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị; hoàn thiện cơ chế quản lý dự án xây dựng - chuyển giao (dự án BT).
Ba là, thực hiện các giải pháp nhằm nâng hạng TTCK. Hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật, đồng thời nâng cấp hạ tầng công nghệ, cải thiện điều kiện vận hành thị trường nhằm đáp ứng các tiêu chí khắt khe từ các tổ chức xếp hạng quốc tế. Trong đó, triển khai tốt Nghị định số 245/2025/NĐ-CP ngày 11/9/2025, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 155/2020/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Chứng khoán, tăng cường kỷ luật thị trường, bảo vệ nhà đầu tư và thu hút vốn ngoại.
Bốn là, tiếp tục tập trung rà soát, tháo gỡ khó khăn trong giải ngân đầu tư công: (i) Trong giai đoạn sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương cần quyết liệt chỉ đạo, tổ chức triển khai, bảo đảm không để xảy ra tình trạng đứt gãy, gián đoạn trong việc triển khai thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, đặc biệt dự án quan trọng quốc gia, dự án đường cao tốc, dự án giao thông trọng điểm; (ii) Đẩy nhanh tiến độ bồi thường, giải phóng mặt bằng (GPMB), ưu tiên bố trí đủ kinh phí để thực hiện bồi thường, GPMB đối với phần diện tích có đủ điều kiện; tăng cường phối hợp giữa chính quyền địa phương và chủ đầu tư, ban quản lý dự án trong công tác GPMB; (iii) Tiếp tục tập trung tháo gỡ các khó khăn liên quan đến cấp phép mỏ, khai thác vật liệu đá, cát, đất… phục vụ các dự án đầu tư công đảm bảo nhanh, hiệu quả, đúng quy định pháp luật; (iv) Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xử lý thủ tục về đầu tư công.
Năm là, thực hiện nghiêm túc các cam kết trong thỏa thuận thương mại của Việt Nam với Hoa Kỳ, đồng thời chủ động, tích cực phối hợp với cơ quan thực thi, xây dựng chính sách của Hoa Kỳ một cách liên tục nhằm duy trì mức thuế quan của Hoa Kỳ đối với hàng hóa Việt Nam ở mức có lợi thế cạnh tranh với các nước trong khu vực, tạo thuận lợi cho tăng trưởng xuất khẩu và thu hút FDI của Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần đa dạng hóa, thúc đẩy xuất khẩu sang các thị trường khác, đặc biệt là các thị trường có quy mô lớn, tiềm năng, phát huy hiệu quả các hiệp định, thỏa thuận thương mại đã ký kết. Cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn mới của thị trường xuất khẩu, hỗ trợ doanh nghiệp trong các vụ kiện chống bán phá giá; tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm để mở rộng thị trường tiêu thụ, thúc đẩy xuất khẩu.
Sáu là, về ổn định tỷ giá: (1) Nên sử dụng các công cụ trên thị trường mở để điều hoà thị trường thay vì tăng lãi suất chính sách nhằm tránh tác động tiêu cực tới tâm lý thị trường; (2) Hạn chế ngoại tệ rời khỏi biên giới quốc gia bằng các chính sách hạn chế đầu tư tài chính ngắn hạn ra nước ngoài của các TCTD trong nước bằng các chính sách như tăng tỷ trọng rủi ro với tài sản đầu tư mục này hoặc/và hạn chế tỷ lệ đầu tư này. Có thể cân nhắc giảm dự phòng rủi ro bắt buộc với ngoại tệ tại các TCTD (hiện đang ở mức 6 - 8%); (iii) Cho phép TCTD trả lãi huy động tiền gửi ngoại tệ đối với các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu đồng thời cho phép các doanh nghiệp này không phải kết nối ngay khi có doanh thu từ xuất khẩu./.
Nguồn: Trung tâm Thông tin kinh tế, tài chính và thống kê
Tài liệu tham khảo
1. Hội đồng Vàng thế giới (2025), Khảo sát của Hội đồng Vàng thế giới vào tháng 6/2025.
2. OECD (2025), OECD Economic Outlook, Interim Report September 2025: Finding the Right Balance in Uncertain Times, OECD Publishing, Paris.
3. Trading Economics (2025), Tổng hợp chỉ số từ các giao dịch trên hợp đồng chênh lệch CFD của thị trường.
4. Trading Economics (2025).