Kinh tế tư nhân - Động lực bứt phá vì một Việt Nam thịnh vượng, hùng cường

09/06/2025 10:33


Ngày 04/5/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân (KTTN), xác định khu vực này là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển mạnh mẽ về tư duy phát triển, đồng thời mở ra "cơ hội vàng" cho khu vực KTTN bứt phá trong kỷ nguyên mới.

Trong các nền kinh tế thị trường phát triển, khu vực tư nhân luôn giữ vai trò trung tâm trong việc tạo ra tăng trưởng, đổi mới và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Thực tế cho thấy, quốc gia nào sớm có chính sách đột phá, hỗ trợ khu vực tư nhân phát triển mạnh mẽ thì quốc gia đó sẽ bứt phá, thịnh vượng. Ngược lại, nếu xem nhẹ vai trò của khu vực này, nguy cơ tụt hậu là điều khó tránh.

Phát triển KTTN không chỉ dừng ở việc khơi dậy khát vọng làm giàu chính đáng, mà quan trọng hơn là tạo dựng một hệ sinh thái kinh doanh công bằng, minh bạch - nơi doanh nghiệp có thể yên tâm đầu tư dài hạn và cạnh tranh lành mạnh. Khi đó, tư nhân không chỉ đóng góp vào GDP mà còn trở thành động lực lan tỏa sức sống cho toàn nền kinh tế.

Việc Bộ Chính trị xác lập KTTN là “động lực quan trọng nhất” trong Nghị quyết 68-NQ/TW là bước chuyển mạnh mẽ về tư duy phát triển. Đây là lời khẳng định rõ ràng về vai trò trụ cột của tư nhân trong mô hình tăng trưởng mới, cũng như sự đồng hành chiến lược của Đảng và Nhà nước với khu vực này trong hành trình xây dựng một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.

Trong kỷ nguyên chuyển đổi số và hội nhập toàn cầu, chỉ khi khu vực tư nhân phát triển nhanh, mạnh và bền vững thì nền kinh tế mới đủ năng lực cạnh tranh quốc tế. Thúc đẩy KTTN không chỉ là yêu cầu cấp thiết, mà còn là lựa chọn chiến lược để Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình và khẳng định vị thế trên bản đồ kinh tế thế giới.

Góp phần quan trọng vào tăng trưởng, tạo việc làm và giảm nghèo

Trong những năm gần đây, kinh tế Việt Nam ghi nhận nhiều thành tựu nổi bật: tăng trưởng ổn định, lạm phát được kiểm soát, đời sống người dân cải thiện rõ rệt và an sinh xã hội được bảo đảm. Một trong những động lực quan trọng đứng sau những kết quả đó chính là KTTN – lực lượng đang vươn lên mạnh mẽ, đóng vai trò ngày càng rõ nét trong phát triển đất nước.

42 triệu lao động, hơn 51% GDP - sức mạnh không thể thay thế

Theo Tổng cục Thống kê, năm 2024, khu vực KTTN đã thu hút hơn 42 triệu lao động, tăng 1,5 triệu người so với năm 2021 và chiếm tới 82% tổng số lao động vào tang trưởng. Đây là lực lượng then chốt thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, góp phần đổi mới sáng tạo và nâng cao năng suất lao động. Mỗi năm, năng suất lao động khu vực này tăng trung bình từ 6 - 8%, cho thấy sự cải thiện đáng kể về hiệu quả và trình độ tổ chức sản xuất.

KTTN cũng đóng vai trò quan trọng trong giảm nghèo và thu hẹp chênh lệch vùng miền. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm từ 4,03% (2022) xuống 1,93% (2024); tỷ lệ người nghèo sống dưới mức 3,65 USD/ngày (chuẩn PPP 2017) giảm một nửa trong 4 năm – từ 4% (2020) còn 1,98% (2024). Đây là minh chứng rõ ràng cho tác động lan tỏa của khu vực tư nhân đến chất lượng sống và an sinh xã hội.

Tăng trưởng quy mô, mở rộng ảnh hưởng

Từ mức 42,6% GDP năm 2016, khu vực KTTN đã tăng đóng góp lên 50,2% vào năm 2021 và ước đạt trên 51% năm 2024. Cùng với đó, tổng số doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể không ngừng gia tăng, hiện đạt gần 800 nghìn doanh nghiệp và trên 5 triệu hộ kinh doanh. Trong đó, doanh nghiệp tư nhân đóng góp hơn 24% và hộ kinh doanh chiếm khoảng 23% vào tăng trưởng chung của cả nước.

KTTN cũng là lực lượng đầu tư chủ lực, đóng góp 60% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, hơn 30% thu ngân sách nhà nước, và nắm giữ 35% kim ngạch nhập khẩu cùng 25% kim ngạch xuất khẩu. Đây là bằng chứng rõ ràng về khả năng thích ứng và chiếm lĩnh thị trường ngày càng đa dạng, không chỉ trong nước mà còn vươn ra khu vực.

Tham gia toàn diện vào các ngành mũi nhọn

Doanh nghiệp tư nhân hiện diện ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế trọng điểm: từ chế biến – chế tạo, xây dựng, vận tải, hàng không, bất động sản, công nghệ thông tin cho tới tài chính – ngân hàng và nông nghiệp công nghệ cao. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp đã vươn lên làm chủ công nghệ, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, từng bước khẳng định năng lực cạnh tranh quốc tế.

Những tên tuổi lớn như Vingroup, Masan, Sun Group, Vietjet, Thaco, Hòa Phát, Geleximco, Sovico, TH Group, REE… không chỉ góp phần phát triển kinh tế - xã hội trong nước mà còn đang xây dựng thương hiệu Việt trên bản đồ doanh nghiệp toàn cầu.

Minh chứng sống động cho khát vọng phát triển dân tộc

Sự phát triển vượt bậc của KTTN Việt Nam trong những năm qua là minh chứng cho tiềm năng to lớn của khu vực này nếu được trao cơ hội, niềm tin và hành lang chính sách thuận lợi. Không chỉ góp phần tạo dựng một nền kinh tế năng động và sáng tạo, khu vực tư nhân còn đang từng bước trở thành trụ cột vững chắc cho mục tiêu xây dựng một Việt Nam hùng cường và thịnh vượng.

Những “nút thắt” cản trở sự phát triển

Dù đóng góp ngày càng rõ nét vào tăng trưởng, tạo việc làm và giảm nghèo, khu vực KTTN vẫn chưa thực sự phát huy hết tiềm năng do còn nhiều rào cản cố hữu kéo dài qua nhiều giai đoạn. Thực trạng này khiến KTTN, dù đông đảo vẫn chưa thể trở thành lực lượng dẫn dắt tăng trưởng như kỳ vọng.

Số lượng lớn nhưng đóng góp chưa tương xứng 

Tính đến cuối năm 2024, khu vực KTTN sử dụng hơn 42 triệu lao động, chiếm hơn 82% tổng số lao động vào tăng trưởng - gấp nhiều lần so với khu vực nhà nước và FDI cộng lại. Tuy nhiên, đóng góp vào GDP chỉ đạt trên 51%, cho thấy khoảng cách lớn giữa quy mô nhân lực và hiệu quả kinh tế thực sự.

Bên cạnh đó, hơn 97% doanh nghiệp tư nhân hiện nay là nhỏ và siêu nhỏ, với năng lực tài chính hạn chế, công nghệ lạc hậu và quản trị thiếu chuyên nghiệp. Theo báo cáo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), chỉ khoảng 6% doanh nghiệp tư nhân có đủ năng lực tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu - một con số thấp đáng báo động trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Thiếu động lực vươn lên từ khu vực hộ kinh doanh cá thể

Việt Nam hiện có hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, đóng góp khoảng 23% GDP. Tuy nhiên, phần lớn vẫn hoạt động ở quy mô manh mún, không đăng ký doanh nghiệp, không có hóa đơn chứng từ đầy đủ và thường né tránh chính sách thuế, bảo hiểm xã hội. Dù nhiều hộ có doanh thu hàng chục, thậm chí hàng trăm tỷ đồng mỗi năm, họ vẫn không mặn mà chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp do lo ngại thủ tục pháp lý rườm rà, chi phí tuân thủ cao và môi trường kinh doanh thiếu minh bạch.

Một khảo sát gần đây của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam cho thấy, 55% hộ kinh doanh không muốn “lớn lên” thành doanh nghiệp vì sợ bị thanh, kiểm tra thường xuyên và không tin tưởng vào sự công bằng trong môi trường pháp lý.

Bất bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực - một rào cản cấu trúc

Một trong những “điểm nghẽn” lớn của khu vực tư nhân là bất bình đẳng trong tiếp cận đất đai, vốn, thông tin và các nguồn lực phát triển khác. Trong khi doanh nghiệp nhà nước vẫn được ưu ái trong phân bổ tài nguyên và dự án, nhiều doanh nghiệp tư nhân phải “tự bơi” trong một môi trường thiếu cơ chế hỗ trợ hiệu quả.

Chỉ 30% doanh nghiệp tư nhân tiếp cận được vốn tín dụng ngân hàng một cách thuận lợi, theo khảo sát của VCCI năm 2023. Những rào cản này không chỉ làm triệt tiêu động lực mở rộng đầu tư mà còn làm suy yếu năng lực cạnh tranh dài hạn của khu vực tư nhân trong chính sân nhà.

Năng suất lao động thấp, thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao

Năng suất lao động của khu vực KTTN tuy có sự cải thiện nhưng còn rất chậm và một thực trạng đáng lo ngại nữa là năng suất lao động của khu vực kinh tế này vẫn thuộc nhóm thấp nhất, thấp hơn nhiều lần trong các khu vực kinh tế. Cụ thể, năng suất lao động theo giá hiện hành của khu vực này năm 2020 là 90,8 triệu đồng/lao động đã tăng lên 124 triệu đồng/lao động năm 2023, trong khi khu vực kinh tế nhà nước tương ứng là 405,6 triệu đồng đã tăng lên 536 triệu đồng/lao động và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 339,9 triệu đồng đã tăng lên 398,1 triệu đồng/lao động. 

Dù chiếm phần lớn lao động xã hội, nhưng phần lớn lao động khu vực này chưa qua đào tạo bài bản, thiếu chứng chỉ nghề nghiệp và kỹ năng số cơ bản. Theo báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), chỉ khoảng 23% lao động trong khu vực tư nhân có trình độ chuyên môn kỹ thuật, so với hơn 60% ở khu vực có vốn FDI. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến năng suất mà còn kìm hãm quá trình chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp.

Kinh tế phi chính thức gây méo mó thị trường

Sự tồn tại và lan rộng của khu vực phi chính thức, vốn chiếm khoảng 30% nền kinh tế, đang đặt ra thách thức lớn về minh bạch, hiệu quả và công bằng. Doanh nghiệp tư nhân phải cạnh tranh với các hoạt động kinh doanh không đăng ký, không nộp thuế, không chịu ràng buộc pháp lý, khiến môi trường kinh doanh trở nên méo mó và thiếu động lực đầu tư dài hạn.

Kiến nghị giải pháp đột phá để kinh tế tư nhân vươn mình

Những hạn chế nêu trên cho thấy phát triển khu vực kinh tế tư nhân không chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà là vấn đề thể chế mang tính cấu trúc. Nếu không có cải cách mạnh mẽ và đồng bộ, KTTN sẽ rất khó vươn lên vai trò là trụ cột của nền kinh tế, như mục tiêu của Nghị quyết số 68-NQ/TW đã đề ra.

Xây dựng niềm tin chiến lược: Nền tảng phát triển bền vững

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, sự phát triển bền vững của khu vực tư nhân bắt đầu từ sự tin tưởng của Nhà nước. Chẳng hạn, Singapore - quốc gia được đánh giá có môi trường kinh doanh minh bạch và năng động hàng đầu thế giới - luôn đặt niềm tin vào doanh nghiệp tư nhân như trụ cột phát triển kinh tế. Tại Việt Nam, việc thể chế hóa quan điểm “tin tưởng, kỳ vọng và hỗ trợ” doanh nghiệp tư nhân sẽ mở rộng không gian sáng tạo, đầu tư, tránh tình trạng “xin – cho” hay phân biệt đối xử. 

Gỡ bỏ rào cản thể chế, tạo quyền tiếp cận bình đẳng

Thực tế nhiều doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam vẫn còn bị hạn chế tiếp cận các nguồn lực quan trọng như đất đai, vốn tín dụng hay thông tin thị trường. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), thủ tục hành chính phức tạp là một trong những rào cản khiến chi phí kinh doanh tăng thêm tới 15 - 20%. Hàn Quốc, nơi các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân được cải cách liên tục, giúp họ tiếp cận vốn vay với lãi suất ưu đãi, đất đai sản xuất kinh doanh và nguồn nhân lực chất lượng cao. Từ những năm 1960, Chính phủ Hàn Quốc đã chủ trương hỗ trợ phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân (chaebol) như Samsung, Hyundai thông qua chính sách tín dụng ưu đãi, cải cách đất đai và ưu tiên tiếp cận thị trường quốc tế. Đến nay, khu vực tư nhân chiếm tới hơn 80% GDP và đóng vai trò trung tâm trong nền kinh tế.

Môi trường kinh doanh minh bạch, cạnh tranh công bằng

Một sân chơi công bằng là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp tư nhân phát huy tối đa sức mạnh. Kinh nghiệm từ Nhật Bản cho thấy khi doanh nghiệp tư nhân được tham gia bình đẳng vào các dự án quốc gia và chuỗi cung ứng toàn cầu, năng suất và chất lượng sản phẩm tăng lên rõ rệt, tạo động lực đổi mới sáng tạo không ngừng. Tại Việt Nam, chỉ có khoảng 30% doanh nghiệp tư nhân tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, con số còn rất khiêm tốn so với các nước trong khu vực.

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, sát với thực tiễn doanh nghiệp

Chìa khóa cho sự phát triển dài hạn của KTTN là nguồn nhân lực. Đào tạo kỹ năng quản trị, công nghệ, chuyển đổi số phải gắn liền với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Ví dụ, Đức nổi tiếng với hệ thống đào tạo nghề chất lượng cao, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp, giúp giảm thiểu khoảng cách kỹ năng lao động. Ở Việt Nam, chỉ khoảng 20% lực lượng lao động được đào tạo bài bản phù hợp với xu hướng công nghiệp 4.0, cho thấy cần đẩy mạnh giáo dục nghề nghiệp và đào tạo doanh nhân.

Hỗ trợ đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, đổi mới sáng tạo là yếu tố sống còn. Năm 2024, Việt Nam chỉ có khoảng 15% doanh nghiệp áp dụng các giải pháp chuyển đổi số sâu rộng, thấp hơn mức trung bình khu vực Đông Nam Á (khoảng 30%). Nhà nước cần thiết lập các chính sách ưu đãi về tài chính, kỹ thuật như Singapore với quỹ đầu tư đổi mới sáng tạo và các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, để khu vực tư nhân không chỉ bắt kịp mà còn dẫn đầu xu thế.

Chuyển đổi hộ kinh doanh cá thể thành doanh nghiệp: Mở rộng quy mô, tăng sức mạnh

Hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam đang là nguồn lực tiềm năng khổng lồ nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Thái Lan đã có nhiều chính sách hỗ trợ chuyển đổi hộ kinh doanh sang doanh nghiệp với thủ tục đơn giản, miễn giảm thuế và hỗ trợ kỹ thuật, giúp khu vực này đóng góp tới 40% GDP. Việt Nam cần học hỏi để thúc đẩy hộ kinh doanh “lớn lên”, gia tăng số doanh nghiệp chính thức, góp phần tạo thêm hàng triệu việc làm chất lượng.

Chiến lược phát triển kinh tế tư nhân đến 2035, tầm nhìn 2045: Kim chỉ nam cho tương lai

Việc sớm ban hành Chiến lược phát triển KTTN mang tầm quốc gia là vô cùng cần thiết. Chiến lược này phải đặt ra mục tiêu rõ ràng, các trụ cột chính sách đồng bộ và định hướng phát triển bền vững để đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045. Từ đó, từng địa phương và ngành nghề sẽ có lộ trình cụ thể, hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tăng trưởng đột phá, góp phần xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng như khát vọng của cả dân tộc.

Nghị quyết số 68-NQ/TW không chỉ là định hướng phát triển kinh tế đơn thuần, mà là lời cam kết chính trị của Đảng về việc đặt doanh nghiệp tư nhân vào vị trí trung tâm của đổi mới và phát triển. Việc triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW sẽ không chỉ tạo ra động lực tăng trưởng mới mà còn góp phần hình thành một nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập sâu rộng và đủ sức cạnh tranh toàn cầu - vì một Việt Nam thực sự thịnh vượng, hùng cường vào năm 2045./.

TS. Nguyễn Như Quỳnh 

Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính

Nguồn: Trung tâm Thông tin kinh tế, tài chính và thống kê 

Tài liệu tham khảo

1. Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển KTTN.

2. GS.TS. Tô Lâm, Phát triển KTTN - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng.

3. Cục Thống kê, Niên giám thống kê các năm 2017, 2023.

4. Cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2024.

5.  TS. Trần Văn Khải, Khát vọng 2045 và kinh tế tư nhân.

6. PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn, Giải pháp chiến lược tạo đột phá phát triển KTTN.