Chính sách tài chính đầu tư phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

15/10/2025 15:08


Nông nghiệp là ngành kinh tế nền tảng của Việt Nam, không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, mà còn đóng góp quan trọng vào xuất khẩu, với kim ngạch đạt hơn 50 tỷ USD năm 2024. Tuy nhiên, trước sức ép của biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên và yêu cầu hội nhập quốc tế cũng như cam kết thực hiện Net Zero vào năm 2050, mô hình phát triển nông nghiệp dựa vào khai thác tài nguyên, thâm dụng lao động và sử dụng hóa chất đã bộc lộ hạn chế, gây suy thoái đất, ô nhiễm môi trường và giảm sức cạnh tranh truyền thống đã bộc lộ nhiều bất cập. Việc chuyển đổi sang nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn trở thành xu thế tất yếu. Trong tiến trình này, chính sách tài chính đầu tư giữ vai trò then chốt, định hướng dòng vốn và tạo động lực cho phát triển nông nghiệp bền vững.

1. Nông nghiệp bền vững - yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh mới 

Theo Tổ chức Lương thực của Liên hợp quốc (FAO), phát triển nông nghiệp bền vững là quá trình quản lý, duy trì sự thay đổi về tổ chức, kỹ thuật và thể chế cho nông nghiệp phát triển nhằm đảm bảo nhu cầu ngày càng tăng của con người về nông phẩm, dịch vụ ở hiện tại và tương lai. Sự phát triển này không làm tổn hại đến môi trường, không làm suy giảm tài nguyên thiên nhiên mà còn phù hợp với kỹ thuật công nghệ, đem lại hiệu quả kinh tế được xã hội chấp nhận. 

Ở Việt Nam, khái niệm này được cụ thể hóa trong Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030 (Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28/01/2025). Theo đó, nông nghiệp bền vững không chỉ tập trung vào tăng trưởng sản lượng mà còn chú trọng ba trụ cột: Hiệu quả kinh tế; thân thiện môi trường; công bằng xã hội và nâng cao thu nhập cho nông dân.

Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển nông nghiệp bền vững, Đảng và Nhà nước đã đưa quan điểm phát triển bền vững lồng ghép vào các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết số 19/NQ-TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã đề ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp quan trọng về phát triển nền nông nghiệp hiệu quả, bền vững theo hướng sinh thái, ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng. Nghị quyết đặt ra yêu cầu phải đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp thực chất, hiệu quả, khai thác và phát huy lợi thế nền nông nghiệp nhiệt đới, tiềm năng, lợi thế của từng vùng, miền, địa phương. Khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn, chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP), giảm phát thải khí nhà kính... Các định hướng quan trọng này cũng được khẳng định trong các chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh (TTX), biến đổi khí hậu (BĐKH), phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững. 

Thực hiện quan điểm của Đảng về phát triển nông nghiệp bền vững, thời gian qua, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm: (i) Tăng cường hiệu quả sản xuất thông qua khuyến khích áp dụng công nghệ mới, nguyên liệu sạch và các phương pháp canh tác bền vững, giúp nâng cao năng suất và chất lượng nông sản; (ii) Bảo vệ môi trường thông qua các biện pháp giảm thiểu hóa chất độc hại trong sản xuất nông nghiệp, bảo vệ nguồn nước và bảo tồn đa dạng sinh học đã được chú trọng; (iii) Cải thiện đời sống nông dân khi xây dựng chính sách thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu sản xuất, tạo ra nhiều cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho cư dân nông thôn; (iv) Thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc tập trung sản xuất nông sản chất lượng cao giúp Việt Nam nâng cao vị thế trên thị trường quốc tế, đặc biệt là các mặt hàng như gạo, cà phê, hải sản. 

Nhờ đó, ngành nông nghiệp đã phát triển ổn định, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, duy trì được tăng trưởng xuất khẩu; thực hiện chuyển đổi tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp thông qua việc áp dụng các mô hình như nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thích ứng BĐKH, liên kết chuỗi giá trị “4 nhà”... Tuy nhiên, quá trình này vẫn gặp nhiều thách thức do quy mô sản xuất nhỏ lẻ, thiếu vốn, hạ tầng chế biến - logistics còn hạn chế và tiêu chuẩn quốc tế ngày càng khắt khe nên mô hình sản xuất nông nghiệp truyền thống trở nên bất cập. Vì vậy, để việc chuyển đổi sang mô hình sản xuất nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn trở thành xu thế tất yếu và hiệu quả, đòi hỏi chính sách tài chính đầu tư phải giữ vai trò then chốt, định hướng dòng vốn và tạo động lực cho phát triển nông nghiệp bền vững. 

PVLD so thang 9 bai 3

Mô hình Canh tác lúa giảm phát thải phục vụ phát triển bền vững vùng nguyên liệu lúa gạo xuất khẩu của ĐBSCL, thu gom rơm bằng máy. Nguồn: Cổng thông tin Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

2. Chính sách tài chính đầu tư phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam

Hệ sinh thái nông nghiệp bền vững là một cấu phần quan trọng trong Chiến lược quốc gia về TTX, thể hiện quan điểm chuyển đổi mô hình phát triển từ “tăng trưởng theo chiều rộng” sang “phát triển dựa trên giá trị sinh thái, đổi mới và khả năng chống chịu” theo định hướng phát triển nông nghiệp carbon thấp, tuần hoàn, hữu cơ, thúc đẩy chuỗi giá trị xanh, nâng cao sinh kế nông dân, bảo tồn tài nguyên đất - nước - đa dạng sinh học. Trên thực tế, quá trình chuyển đổi mô hình sản xuất đã được hỗ trợ bởi hệ thống tài chính xanh đồng bộ - từ ngân sách, đầu tư công, đến thuế, phí và thị trường vốn. Trong đó: 

Chính sách thuế: Đã đóng góp tích cực vào việc phát triển hệ sinh thái nông nghiệp bền vững tại Việt Nam. Pháp luật về thuế đã quy định ưu đãi ở mức cao nhất đối với lĩnh vực nông nghiệp nhằm khuyến khích và tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất - kinh doanh nông nghiệp. Đồng thời, hệ thống chính sách thuế cũng được thiết kế tương đối đồng bộ nhằm thực hiện các mục tiêu về phát triển nông nghiệp bền vững khi hướng đến: Hạn chế sản xuất và sử dụng các loại hàng hóa, sản phẩm gây ô nhiễm môi trường trong sản xuất nông nghiệp (Thuế bảo vệ môi trường, thuế tài nguyên); khuyến khích đầu tư, sản xuất theo công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường (Thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế giá trị gia tăng; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế xuất khẩu, nhập khẩu; thuế sử dụng đất và lệ phí trước bạ). 

Chính sách chi ngân sách nhà nước: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư công cho nông nghiệp, nông thôn đã được ban hành khá đầy đủ nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả đầu tư công cho nông nghiệp, nông thôn, bao gồm các chính sách khuyến khích phát triển, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn... Bên cạnh đó, nội dung về phát triển nông nghiệp bền vững đã được gắn kết chặt chẽ với các nhiệm vụ của các chương trình mục tiêu quốc gia như Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) nông thôn mới; CTMTQG về giảm nghèo bền vững... với các nhóm giải pháp về đa dạng sinh kế cho người dân gắn với bảo đảm môi trường, cảnh quan nông thôn sáng, xanh, sạch, đẹp, an toàn, giàu bản sắc văn hoá truyền thống, thích ứng với BĐKH và phát triển bền vững. 

Chính sách tín dụng: Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã triển khai nhiều chính sách để hướng dòng vốn tín dụng vào lĩnh vực này với mức lãi suất ưu đãi và phát triển tín dụng xanh. Gần nhất, ngày 16/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 156/2025/ND-CP, có hiệu lực từ ngày 01/7/2025, bổ sung chính sách tín dụng khuyến khích nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn. Theo đó, khách hàng có dự án, phương án sản xuất - kinh doanh sản phẩm nông nghiệp hữu cơ theo quy định của pháp luật về nông nghiệp hữu cơ hoặc dự án, phương án sản xuất - kinh doanh sản phẩm nông nghiệp đáp ứng tiêu chí về kinh tế tuần hoàn theo quy định của pháp luật về kinh tế tuần hoàn được tổ chức tín dụng xem xét cho vay không có tài sản bảo đảm tối đa bằng 70% giá trị của dự án, phương án; đồng thời sửa đổi cơ chế bảo đảm tiền vay đối với các cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, hộ kinh doanh, chủ trang trại, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Theo đó, tổ chức tín dụng sẽ xem xét cho vay không có tài sản bảo đảm theo các mức như sau: Tối đa 300 triệu đồng đối với cá nhân, hộ gia đình; tối đa 500 triệu đồng đối với tổ hợp tác, hộ kinh doanh; tối đa 3 tỷ đồng đối với chủ trang trại; tối đa 5 tỷ đồng đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. 

Bên cạnh đó, hệ thống khung khổ pháp lý liên quan đến phát triển thị trường vốn xanh cũng từng bước được hoàn thiện, Nghị định số 163/2018/NĐ-CP về trái phiếu doanh nghiệp đã công nhận trái phiếu xanh và các quy định về phát hành trái phiếu; các quy định về phát hành trái phiếu xanh tại Luật Bảo vệ môi trường 2020, Nghị định số 08/2022/NĐ-CP hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường và các Nghị định quy định phát hành, đăng ký, lưu ký, niêm yết và giao dịch công cụ nợ (như Nghị định số 95/2018/NĐ-CP; Nghị định số 93/2018/NĐ-CP; Nghị định số 153/2020/NĐ-CP, Nghị định số 65/2022/NĐ-CP, Thông tư số 96/2020/TT-BTC) từng bước được hoàn thiện đã góp phần huy động vốn cho phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, bảo vệ môi trường, ứng phó với BĐKH tạo thêm nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp bền vững. 

Thêm vào đó, bảo hiểm nông nghiệp luôn là công cụ quan trọng giúp nông dân giảm thiểu rủi ro, trong thời gian qua chính sách bảo hiểm luôn được chú trọng hoàn thiện phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp theo Quyết định số 315/QĐ-TTg ngày 01/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ, ngày 18/4/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 58/2018/NĐ-CP theo hướng: Bảo hiểm nông nghiệp được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện thỏa thuận, không giới hạn tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm, rủi ro được bảo hiểm và phạm vi địa bàn; có quy định chính sách hỗ trợ phí bảo hiểm từ ngân sách nhà nước. 

Mặc dù thời gian qua các chính sách tài chính - đầu tư đã được thiết kế dành sự ưu tiên cho phát triển lĩnh vực nông nghiệp bền vững song vẫn còn có những hạn chế. Trong đó: 

Chính sách thu đối với hoạt động gây ô nhiễm môi trường chưa đủ mạnh để có tác động thay đổi nhận thức và hành vi của cộng đồng đối với môi trường; chính sách thuế nhằm hạn chế sản xuất, tiêu dùng các sản phẩm gây nguy hại đối với môi trường cũng chưa tác động nhiều đến hành vi trong thực tiễn. Mức thu của một số loại hàng hóa gây ô nhiễm môi trường còn thấp. Các mức thuế suất và phí đánh vào các hoạt động gây ô nhiễm môi trường cũng như các chế tài xử phạt đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường còn thấp và chưa đủ mạnh. Số thu từ các sắc thuế nhằm hạn chế sản xuất, tiêu dùng các sản phẩm gây nguy hại đối với môi trường chưa tương xứng với những tổn hại do hoạt động sản xuất, tiêu dùng gây ra. 

Giải ngân nguồn vốn các CTMTQG nông thôn mới, giảm nghèo bền vững còn chậm, chưa thật sự là động lực cho phát triển nông nghiệp nông thôn. Ước thực hiện giải ngân vốn kế hoạch năm 2024 tính đến hết ngày 31/01/2025 của 3 CTMTQG đạt 23.321,2 tỷ đồng, đạt 85,68% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, thấp hơn mức giải ngân 93,06% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao của vốn trong nước. 

Mặc dù có gói tín dụng ưu đãi, nhiều hộ nông dân và hợp tác xã nhỏ vẫn khó tiếp cận vốn tín dụng do thiếu tài sản thế chấp, khó đáp ứng điều kiện tín dụng, trong khi lại phải đối mặt với yêu cầu đầu tư dài hạn, quy mô lớn nếu muốn triển khai sản xuất tuần hoàn, bao gồm xử lý phụ phẩm, tái chế, công nghệ sinh học... nên khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng nói chung và tín dụng xanh còn hạn chế. 

Sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp còn thiếu sự linh hoạt, chưa hấp dẫn được bên mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và nhà tái bảo hiểm quốc tế xây dựng sản phẩm. Việc xây dựng sản phẩm gặp nhiều khó khăn do hạn chế về nguồn dữ liệu thống kê, xác định đối tượng được bảo hiểm, đối tượng được hỗ trợ rủi ro thiên tai, dịch bệnh cũng như tổn thất về thiên tai gây ra.

3. Hoàn thiện chính sách tài chính đầu tư phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam thời gian tới

Việt Nam xác định nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Trong thời gian tới, để chính sách tài chính phát huy hiệu quả hỗ trợ và đạt được các mục tiêu phát triển nông nghiệp xanh, cần phải: 

Thứ nhất, đẩy nhanh việc xây dựng cơ sở dữ liệu các CTMTQG tại Bộ Tài chính để thống nhất kết nối, tích hợp dữ liệu từ hệ thống thông tin có liên quan đến CTMTQG theo quy định tại Quyết định số 25/2025/QĐ-TTg ngày 22/7/2025 về xây dựng cơ sở dữ liệu và chế độ báo cáo trực tuyến trên hệ thống trong giám sát, đánh giá các CTMTQG. Tập trung xử lý khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các CTMTQG, đặc biệt là trong bối cảnh triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp; triển khai đánh giá kết quả thực hiện các CTMTQG giai đoạn 2021 - 2025 để đề xuất giải pháp phù hợp cho giai đoạn tiếp theo. 

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, đầu tư tài chính xanh, phát triển các cơ sở đào tạo, nghiên cứu để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực nông nghiệp, có những cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân thực hiện nông nghiệp xanh, bền vững. Tăng cường nguồn lực cho chi bảo vệ môi trường, chi phát triển khoa học và công nghệ gắn với mục tiêu chuyển đổi, phát triển sản xuất bền vững trong nông nghiệp. Chính sách hỗ trợ của Nhà nước vẫn cần được thực hiện trong dài hạn nhằm tạo nền tảng, cơ sở cho thúc đẩy doanh nghiệp, hộ nông dân, hợp tác xã ứng dụng công nghệ trong sản xuất. Tuy nhiên, để thực hiện tốt được các chính sách cần có sự rà soát cụ thể, chặt chẽ các quy hoạch vùng nông nghiệp cũng như các sản phẩm ứng dụng trong nông nghiệp với các đặc trưng liên quan đến sản phẩm công nghệ sinh học, hóa học cũng như kỹ thuật công nghệ cao. Bên cạnh đó, cân nhắc ưu tiên hỗ trợ cho các doanh nghiệp có lượng khí thải lớn trong chuyển đổi mô hình, địa điểm, vị trí hoạt động vì mục tiêu môi trường bền vững không chỉ tại doanh nghiệp mà cả môi trường xã hội. 

Thứ ba, ưu tiên nguồn lực hỗ trợ chuyển giao công nghệ, ứng dụng các kết quả nghiên cứu công nghệ xanh vào sản xuất nông nghiệp. Hỗ trợ phát triển các tổ chức trung gian, môi giới để tăng cường hoạt động dịch vụ môi giới, tư vấn chuyển giao công nghệ. Phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng quốc gia của thị trường khoa học công nghệ, bao gồm sàn giao dịch công nghệ, cơ sở dữ liệu tích hợp, dùng chung và các cộng cụ để kết nối thị trường... Rà soát đầu tư công làm nền tảng, cơ sở cho huy động các nguồn vốn khác cho đầu tư TTX. Rà soát, phối hợp các chương trình, đề án, nguồn vốn (ODA, đầu tư tư nhân...) có mục tiêu liên quan đến nông nghiệp bền vững, tăng cường hiệu quả chính sách.

Thứ tư, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 21/2025/QĐ-TTg ngày 04/7/2025 quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận dự án đầu tư thuộc danh mục phân loại xanh. Đây là văn bản pháp lý tạo thuận lợi cho việc phát triển thị trường tín dụng xanh, thị trường trái phiếu xanh. Tuy nhiên, cần phải có văn bản hướng dẫn có liên quan của NHNN và các bộ, ngành để triển khai thực hiện. Ngoài ra, mặc dù hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật về môi trường ở Việt Nam đã từng bước hoàn thiện, song vẫn còn một số hạn chế, một số lĩnh vực mới như phát thải khí nhà kính, quản lý carbon, kinh tế tuần hoàn… chưa có quy chuẩn đầy đủ, cần phải bổ sung sớm để thúc đẩy thị trường tín dụng xanh, trái phiếu xanh phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững. 

Thứ năm, để chính sách bảo hiểm nông nghiệp thực sự khả thi và phát huy hiệu quả, Bộ Tài chính cần sớm trình ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 58/2018/NĐ-CP ngày 18/4/2018 của Chính phủ. Việc sửa đổi nên tập trung vào một số định hướng chủ yếu: Mở rộng đối tượng được bảo hiểm, bao gồm cả các sản phẩm nông nghiệp chủ lực quốc gia và địa phương; mở rộng phạm vi rủi ro được hỗ trợ; cũng như mở rộng địa bàn áp dụng chính sách. Đồng thời, cần nâng mức hỗ trợ phí bảo hiểm, đặc biệt đối với các tổ chức, doanh nghiệp sản xuất hàng hóa nông nghiệp quy mô lớn./.

TS. Nguyễn Thị Hải Thu 

Nguồn: Trung tâm Thông tin kinh tế, tài chính và thống kê

 Tài liệu tham khảo 

1. Chính phủ (2021), Quyết định số 1658/QĐ-TTg về Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050. 

2. Hà Văn (2024), Thủ tướng: Ngành nông nghiệp phải tăng tốc, bứt phá, xuất khẩu 70 tỷ USD trong năm 2025, Báo Điện tử Chính phủ. 

3. Lê Nguyễn Diệu Anh (2024), Chính sách phát triển nông nghiệp xanh ở Việt Nam, Tạp chí Lý luận Chính trị. 

4. Phạm Minh Phong (2025), Phát triển nông nghiệp Việt Nam bền vững trong kỷ nguyên mới, Tạp chí Kinh tế và Dự báo Tháng 5/2025. 

5. Tuấn Thủy (15/01/2025), Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 58/2018/NĐ-CP: Tăng hiệu quả chính sách bảo hiểm nông nghiệp, Tạp chí Tài chính online.