Chuyển đổi phương thức phát triển: Cơ hội và thách thức
18/08/2015 08:51
Mỗi năm GDP toàn cầu bị mất đi 1,6%, tức làkhoảng 1.200 tỷ USD do biến đổi khí hậu. Và lượng GDP mất đi này sẽ tăng gấpđôi trong vòng 20 năm nữa, nếu nhiệt độ trái đất tiếp tục tăng. Nguyên nhân làdo phương thức phát triển cũ, truyền thống đã lạm dụng quá nhiều nguồn nguyênliệu hóa thạch, phát thải khí, gây hiệu ứng nhà kính, khiến trái đất nóng lên.Việc chuyển đổi phương thức phát triển trở thành nhu cầu tất yếu trên toàn thếgiới, trong đó có Việt Nam.
Với việc ban hành hai văn bản pháp quy quan trọng là Quyết định số432/QĐ-TTg, ngày 12/04/2012phee duyệt Chiến lược phát triển bền vững Việt Namgiai đoạn 2011-2020 và Quyết định số 1393/QĐ-TTg, ngày 25/9/2012 phê duyệtChiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh, Thủ tướng đã khẳng định rõ, trọng tâmhàng đầu trong chương trình nghị sự của Chính phủ là chuyển đổi mô hình tăngtrưởng, tái câu trúc kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bềnvững. Kết quả này xuất phát từ đòi hỏi mang tính cách mạng, thời đại, thể hiệnxu hướng bắt nhịp "cuộc chơi” toàn cầu của Việt Nam trong tư duy chính sách vàthực tiễn hành động.
Xét về mặt học thuật, "Kinh tế xanh”là sự nâng cấp của "Kinh tế môi trường” (Environmental Economy), mở ra mộthướng tiếp cận rộng hơn cho cả những điều chỉnh từ chính sách kinh tế vĩ mô đếnđiều hành thực hiện trong kinh tế vi mô (nhất là đối với chính sách công trongđầu tư cho khôi phục tại nguyên, môi trường, cùng sự tăng trưởng về thu nhập,cũng như việc làm thông qua đàu tư của Nhà nước và tư nhân), làm giảm thiểuphát thải cacbon, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Tuy mới ra đời, nhưng nhiều quốc giađã và đang thực hiện theo hướng xanh hóa nền kinh tế, thậm chí các chỉ tiêu đolường đã được một số quốc gia áp dụng như: GDP xanh (Green GDP) cho chỉ tiêu kinhtế vĩ mô; những sản phẩm đã đăng ký và được cấp chứng chỉ ISO-14000, những sảnphẩm xanh được cấp nhãn sinh thái (Eco-label)… Đến nay, các quốc gia cũng cơbản nhất trí mục tiêu hướng tới của các nền kinh tế toàn cầu là "Kinh tế xanh”,trong đó tập trung vào "Sản xuất và tiêu dùng bền vững”.
NHẬN DIỆNCÁC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TẠI VIỆT NAM
Là một trong 5 nước chịu tác độngnặng nề nhất của biến đổi khí hậu, việc hướng tới nền kinh tế xanh của Việt Namlà lựa chọn hợp lý. Tuy nhiên, để chuyển đôit thành công sang phương thức pháttriển "xanh”, Việt Nam cần phải nhận diện rõ những cơ hội và thách thức. Cụthể:
Về cơ hội:
- Lợi thế nằm trong khu vực nhiệt đới, gió mùa Đông Nam Á, có nguồnnăng lượng mặt trời dồi dào, năng lượng gió phong phú, sinh vật tăng trưởngnhanh… là cơ hội cho Việt Nam tham gia vào các chương trình mục tiêu thiên niênkỷ để hướng tới nền kinh tế xanh. Vai trò bất biến của cao ngueyen Bắc bộ vàdãy Trường Sơn đối với việc đảm bảo an ninh nguồn nước, cung cấp nơi cư trú vàduy trì văn hóa bản địa, kiểm soát thiên tai, như: lũ lụt, lở đất, xói mòn vàbồi tụ đất đai trong Thỏa thuận toàn cầu của nền Kinh tế Xanh (Global Green NewDeal), là một lợi thế của các dịch vụ hệ sinh thái có thể được ước tính, và giátrị hiện tại của chúng là một phần cơ bản của "vốn tự nhiên” của Việt Nam.
- Hiện nay sự quan tâm lớn nhất của cộng đồng thế giới là biến đổikhí hậu. Nhằm giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanhđang là những xu hướng mới trong lộ trình tiến tới "Nền kinh tế xanh”. Việt Namsẽ đón nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia và các tổ chức quốc tếtrên thế giới khi hướng tới xây dựng nền kinh tế xanh.
- Việt Nam đang có những thayđổi cơ bản sau 26 năm đổi mới và mở cửa, đang tiếp tục hoàn thiện thể chế kinhtế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới một sự phát triển vì conngười. Những yếu tố đó được thực hiện trong một môi trường chính trị ổn định làcơ hội tốt cho triển khai thực hiện nền kinh tế xanh.
- Hướng tới một nền kinh tế xanh sẽ nhận được sự đồng thuận cao củaxã hội vì những lý do sau: (1) Những vấn đề bức xúc về ô nhiễm môi trường vàsuy giảm tài nguyên trong thời gian phát triển vừa qua đã tác động đến sự pháttriển của đất nước; (2) Nhiều lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam như: nănglượng, nguồn nước, công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật, ngành xây dựng và đô thị,giao thông vận tải… đã thể hiện nhiều hạn chế, yếu kém mang tính hệ thống, buộcChính phủ đang phải cấu trúc lạo những lĩnh vực này; (3) Sau một thời gian pháttriển từ khi đổi mới và mở cửa, người dẫn đã nhận thức được sự trả giá của môhình phát triển của nền "Kinh tế nâu”.
- Nếu khủng hoảng lương thực trong ba thập niên tới, Việt Nam cónhiều tiềm năng trở thành điểm chủ chốt trong chuỗi đảm bảo an ninh lương thựccho thế giới. Có thể gọi đây là "quyền lực xanh” của Việt Nam trong tương lai,xây dựng trên nền tảng của một nền kinh tế hiện nay có lợi thế cao về xuất khẩunông, lâm, thủy sản trên thế giới.
Về thách thức:
Một là, về nhận thức, hiểu thế nào là một nền "Kinh tế xanh” hiệnnay ở Việt Nam vẫn còn hết sức mới mẻ, đòi hỏi phải có những nghiên cứu và phổbiến rộng rãi kiến thức trong tầng lớp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách,các doanh nghiệp và người dân. Hiện nay chưa có văn bản pháp lý nào của ViệtNam khẳng định nội hàm "Kinh tế xanh”. Khi không được nhận thức đầy đủ, thìtính đồng thuận trong xã hội sẽ không đạt được, do vậy sẽ khó thực hiện.
Hai là, sự khác biệt về cách thức tiến hành giữa nền kinh tế truyềnthống – "Nền kinh tế nâu” với mô hình mới – "Nền kinh tế xanh”, cùng những thayđổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế cần phải bắt đầu từ đâu, nhưthế nào? Hiện nay, cũng chưa được làm rõ được các vấn đề này trong bối cảnhphát triển kinh tế Việt Nam.
Ba là, "Nền kinh tế xanh” gắn với sử dụng năng lượng tái tạo, cácbon thấp, tăng trưởng xanh, đầutư khôi phục hệ sinh thái, giải quyết sinh kếgắn với phục hồi môi trường… trong khi thực tế, công nghệ sản xuất ở Việt Namhiện nay phần lớn là công nghệ cũ, tiêu hao năng lượng lớn. Do đó, việc thayđổi công nghệ mới phù hợp với "Nền kinh tế xanh” là thách thức không nhỏ nếukhông có trợ giúp của các nước có công nghệ cao trên thế giới.
Bốn là, huy động nguồn vốn cho thực hiện mục tiêu "Xây dựng nềnkinh tế xanh”. Mặc dù Việt Nam đã thoát khỏi ngưỡng của nước nghèo, nhưng tíchlũy quốc gia so với các nước đã pháttriển còn quá thấp. Đây là thách thức không nhỏ đối với Việt Nam trong quátrình triển khai nền kinh tế xanh.
Năm là, cơ chế chính sách hướng tới thực hiện "Nền kinh tế xanh” ởViệt Nam hiện nay gần như chưa có, trong khi trên thế giới cũng mới đề xuấthướng tiếp cận. Việc rà soát lại cơ chế chính sách liên quan và sửa đổi bổ dungcho phù hợp với mô hình phát triển mới theo hướng cơ cấu lại ngành kinh tế vàhướng tới nền kinh tế xanh là thách thức không nhỏ.
ĐỊNH HƯỚNGTHỰC HIỆN "NỀN KINH TẾ XANH” Ở VIỆT NAM
Để thực hiện nền kinh tế xanh ởViệt Nam, những định hướng cơ bản sau đây cần thực hiện:
1.Để xây dựng được một lộ trình với các chương trình hành động ưutiên, cần thấm nhuần quan điểm về kinh tế xanh và định vị Việt Nam trong nềnkinh tế xanh toàn cầu với những lợi thế có thể có được của Việt Nam. Vì vậy,cần tạp trung tiếp cận sớm những kiến thức xanh và công nghệ sạch của cộng đồngkhoa học thế giới, đầu tư vào giáo dục cho phát triển bền vững, khuyến khích kỹnăng kiến tạo của người Việt Nam.
2.Tập trung tuyên truyền, giáo dục định hướng thay đổi nhận thứctrước đây của xã hội từ nền "Kinh tế nâu” sang "Kinh tế xanh” để tạo một sựđồng thuận cao trong xã hội, từ lãnh đạo đến người dân và doanh nghiệp. Tronghệ thống giáo dục chuyên nghiệp, đổi mới giáo trình, bài giảng theo hướng tiếpcận phát triển nền kinh tế xanh. Nâng cấp nội dung "Kinh tế môi trường” và"Kinh tế tài nguyên thiên nhiên” truyền thống theo hướng giảng dạy "Kinh tếxanh”.
3.Chuyển đổi sang nền kinh tế xanh cần phải tăng cường năng lực chobộ máy nhà nước ở các cấp về các kỹ năng phân tích thách thức, xác định cơ hội,đặt ưu tiên cho các hoạt động, huy động nguồn lực, thực hiện chính sách và đánhgiá tiến độ. Hơn nữa, cũng phải có kế hoạch đào tạo cán bộ trong bộ máy hànhchính vè kinh tế xanh, tăng trưởng xanh vì phát triển bền vững ở mọi cấp, từTrung ương đến địa phương, đặc biệt là những phương pháp đo lường tiến bộ vàđánh giá tài sản tự nhiên của nền kinh tế xanh quốc gia. Hạch toán Xanh (GreenAccounting), hay Hoạch toán Tái sản toàn diện (Inclusive Wealth Accounting) lànhững công cụ đã có trên thế giới, Việt Nam cần tiếp cấn sớm.
4.Đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ trong nghiên cứu, hợp tácnghiên cứu các lĩnh vực ngành nghề trong nội hàm của "Nền kinh tế xanh”, như:sử dụng năng lượng tái tạo, công nghệ sản xuất tiết kiệm tài nguyên, tiêu haoít năng lượng, công nghệ giảm thiểu phát thải khí nhà kính; hạn chế tối đã gâyô nhiễm môi trường; phục hồi hệ sinh thái tự nhiên.
5.Chú trọng quy hoạch tổng thể, quy hoạch đất đai cho phát triển đôthị, phát triển giao thông, khu công nghiệp, khu chế xuất, các công trình phúclợi xã hội theo hướng dành quỹ đất đủ cho phát triển cây xanh, hồ nước và cáccông trình hạ tầng kỹ thuật môi trường theo quy định tiêu chuẩn quốc tế. Cầnđặc biệt quan tâm đến nguy cơ vừa mất đất canh tác, vừa có tính trạng đất canhtác bị suy thoái do các phương thức canh tác lạc hậu, thiếu tính bền vững.
6.Cải cách hệ thông thuế, trong đó tập trung thuế tài nguyên và xemxét lại thuế môi trường hướng tới phát triển "Nền kinh tế xanh” được điều chỉnhthông qua công cụ tài chính và thuế khóa nhằm khuyến khích tiết kiệm và sử dụnghiệu quả tài nguyên, nhất là tài nguyên quý hiếm, bảo vệ môi trường.
7.Đối với chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cần có sự đổi mới, xem xét lại vàhoàn thiện chỉ tiêu GDP xanh, cải tiến hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) phảnánh đủ các chỉ tiêu tính toán môi trường trong hạch toán cân đối tài khoản quốcgia.
8.Rà soát, xem xét lại cơ chế chính sách đã có liên quan đến dịch vụhệ sinh thái và đầu tư cho phát triển rừng thời hạn vừa qua, gắn phát triểnrừng với xóa đói giảm nghèo trên cơ sở phát huy hiệu quả thể chế "Kinh tế thịtrường định hướng xã hội chủ nghĩa”; những ưu thế của công cụ kinh tế liến quanđến chi trả dịch vụ môi trường rừng, bổ sung và hoàn thiện công cụ này triểnkhai trong cả nước.
9.Dừa vào tiêu chí quốc tế, như dự tính của UNEP, là đầu tư côngtoàn cầu chiếm 2% GDP cho phát triển kinh tế xanh, Việt Nam cần tổng kết xemtrường thời gian vừa qua, mức độ đầu tư cho môi trường ở Việt Nam còn thiếu hụtbao nhiêu, để tiếp tục bổ sung và hoàn thiện phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
10.Tích cực hợp tác quốc tế trong nỗ lực xây dựng nền kinh tế xanh ởViệt Nam, huy động các nguồn lực hỗ trợ của quốc tế, nhất là nguồn vốn đầu tư2% GDP toàn cầu cho phát triển kinh tế xanh.
11.Điều hành kinh tế vĩ mô, kĩh thích tăng trưởng dựa vào tiêu dùng nộiđịa; từng bước thúc đẩy tiêu dùng trong nước để phát triển kinh tế, thông quatăng lương cho người dân; và đặc biệt là nâng cao thu nhập cho người nông dân,tăng cường xây dựng chế độ bảo hiểm xã hội; nới ỏng tiền tệ và tăng chi tiêucho cơ sở hạ tầng…Việt Nam cũng cần xây dựng những đại bàn trọng điểm của nềnkinh tế xanh ở nhiều vùng, như: coa nguyên Bắc bộ, miền Trung và Tây Nguyên,hai đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long, đặc biệt là đảo Phú Quốc, Việt Namcần phải minh chứng rõ rệt mình đang chuyển dịch vào nền kinh tế xanh với nhữngđịa bàn trọng điểm này./.
Đăngtrên: Nghiên cứu - Trao đổi, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 5(T3/2013)