Tình hình doanh nghiệp Việt Nam 9 tháng đầu năm 2025: Khởi sắc nhưng nhiều thách thức
13/10/2025 09:10
Trong 9 tháng đầu năm 2025, bức tranh doanh nghiệp Việt Nam ghi nhận nhiều tín hiệu tích cực, phản ánh xu hướng phục hồi và tăng trưởng sau giai đoạn khó khăn trước đó. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động tăng mạnh, tổng vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế được cải thiện đáng kể, cho thấy niềm tin kinh doanh đang dần được củng cố. Tuy vậy, đà phục hồi vẫn chưa thật sự bền vững khi số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường vẫn ở mức cao, trong khi chi phí đầu vào, lãi suất và rào cản tiếp cận vốn tiếp tục gây áp lực lớn lên hoạt động sản xuất - kinh doanh. Điều này cho thấy khu vực doanh nghiệp Việt Nam vẫn cần thêm những giải pháp chính sách đồng bộ, thiết thực hơn để hỗ trợ quá trình phục hồi và phát triển trong giai đoạn tới.
Những kết quả đạt được
Trong tháng 9/2025, nhiều doanh nghiệp thành lập mới và quay lại hoạt động, cùng với sự tăng trưởng lợi nhuận sau thuế ấn tượng tại nhiều doanh nghiệp. Cụ thể: Cả nước có 16,8 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, tăng 49,8% so với cùng kỳ năm trước; 10,7 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 65,7% so với cùng kỳ năm 2024. Điều đó cho thấy làn sóng khởi nghiệp vẫn đang tiếp tục hết sức mạnh mẽ trên khắp cả nước. Lũy kế 9 tháng đầu năm 2025, cả nước có 231,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 26,4% so với cùng kỳ năm 2024, bình quân một tháng có 25,7 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Đây là lần đầu tiên trong năm 2025 số doanh nghiệp gia nhập thị trường và tái gia nhập thị trường cao hơn 1,3 lần so với số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
Quy mô vốn đăng ký bình quân/một doanh nghiệp đạt gần 10 tỷ đồng, vượt qua con số gần 9 tỷ đồng duy trì trong nhiều tháng qua. Tổng số vốn doanh nghiệp đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 9 tháng năm 2025 là 4.720,5 nghìn tỷ đồng, tăng 104,3% so với cùng kỳ năm 2024.
Kết quả điều tra của Cục Thống kê về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý III/2025 cho thấy, có 33,6% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất - kinh doanh tốt hơn so với quý II/2025; 44,2% số doanh nghiệp nhận định tình hình sản xuất - kinh doanh ổn định và 22,2% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn. Dự kiến quý IV/2025, có 40,8% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý III/2025; 41,7% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất - kinh doanh sẽ ổn định và 17,5% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn. Những số liệu tích cực trên cho thấy niềm tin của doanh nghiệp vào môi trường kinh doanh được cải thiện, niềm tin vào chủ trương chính sách mới của Đảng và Nhà nước ngày càng được củng cố và nâng cao.
Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức
Bên cạnh những kết quả đạt được, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như: ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế - chính trị bất ổn trên thế giới; thủ tục hành chính về cơ bản đã được rút gọn, đơn giản hóa nhưng vẫn còn vướng mắc, chưa đủ để tháo gỡ tất cả các nút thắt cho doanh nghiệp, đặc biệt đối với những doanh nghiệp nhỏ/ hộ kinh doanh chuyển đổi; thiên tai xảy ra liên tục trên phạm vi rộng, gây thiệt hại nặng nề đến người và tài sản tại nhiều địa phương, dự báo có diễn biến phức tạp trong những tháng cuối năm.
Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường vẫn lớn. Trong 9 tháng đầu năm 2025 có 174,9 nghìn doanh nghiệp, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có 19,4 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, so với mức gia nhập và tái hoạt động, sự chênh lệch dù có lợi về số lượng nhưng vẫn cho thấy nhiều doanh nghiệp bị áp lực phải tạm ngưng hoặc giải thể. Tính chung 9 tháng năm 2025, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 99,5 nghìn doanh nghiệp, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước; 53,2 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 13,5%; 22,3 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 45%. Bình quân một tháng có 19,4 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng đang phải đối mặt với một loạt thách thức kép đến từ thị trường và hệ thống quản lý. Một mặt, họ phải chịu áp lực chi phí gia tăng (lãi suất, lương, logistics) cùng với cạnh tranh gay gắt, buộc phải đổi mới công nghệ và thay thế máy móc cũ nhưng lại khó tiếp cận các nguồn vốn cần thiết bao gồm cả tín dụng xanh. Đặc biệt, các doanh nghiệp nhỏ càng khó khăn khi chủ yếu dựa vào vốn vay ngắn hạn và không đáp ứng được thủ tục vay vốn phức tạp. Mặt khác, doanh nghiệp vẫn vướng phải rào cản hành chính từ những thủ tục giấy tờ rườm rà và các quy định về thuế, hải quan, đầu tư chưa được gỡ bỏ triệt để ở cấp địa phương. Điều này khiến khung pháp lý hiện tại chưa tạo động lực đủ lớn khuyến khích các hộ kinh doanh cá thể và hợp tác xã mở rộng quy mô và chuyển đổi thành doanh nghiệp theo kỳ vọng của Chính phủ trong thời gian qua.
Một số giải pháp trong thời gian tới
Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều biến động, yếu tố bất ổn và khó lường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được dự báo tiếp tục gặp khó khăn cả khâu sản xuất lẫn tiêu thụ. Một số nhóm giải pháp đặt ra trong thời gian tới như sau:
Việc cải thiện môi trường kinh doanh, thể chế và thủ tục hành chính được xác định là giải pháp nền tảng, có vai trò cốt lõi trong việc củng cố niềm tin và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ và quyết liệt của toàn bộ hệ thống chính quyền, từ trung ương đến địa phương, phải xác định cải cách là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên. Về mặt pháp lý, cần tập trung nâng cao chất lượng xây dựng chính sách và sửa đổi đồng bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế như: Rà soát, sửa đổi Luật đầu tư để cắt giảm các điều kiện kinh doanh không cần thiết, chồng chéo, không phù hợp; rà soát, sửa đổi Nghị định số 75/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh đảm bảo xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp Luật Cạnh tranh, đặc biệt là các hành vi mang tính chất đặc quyền, độc quyền; Áp dụng cơ chế, chế tài xử lý cạnh tranh công bằng, bình đẳng, minh bạch giữa các thành phần kinh tế… Mục tiêu là đảm bảo các quy định, thủ tục hành chính phải đơn giản, giảm thiểu gánh nặng tuân thủ cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, quá trình xây dựng chính sách phải được thực hiện thông qua quy trình lấy ý kiến thực chất và đối thoại công khai với các đối tượng chịu tác động. Ngoài ra, cần nâng cao chất lượng thực thi pháp luật, đảm bảo giải quyết các thủ tục hành chính đúng thời hạn và nghiêm cấm việc đặt thêm các yêu cầu, điều kiện phát sinh không chính thức đối với doanh nghiệp.
Tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn và tín dụng. Việc cải thiện khả năng tiếp cận vốn là yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp duy trì hoạt động và mở rộng sản xuất, đặc biệt đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) - nhóm chịu nhiều hạn chế về năng lực tài chính và tài sản bảo đảm. Về phía Nhà nước, cần tiếp tục hoàn thiện khung chính sách, đơn giản hóa thủ tục hành chính và loại bỏ các rào cản không cần thiết, nhằm tạo môi trường tài chính thuận lợi hơn để các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng. Các công cụ hỗ trợ như Quỹ Phát triển DNNVV và Quỹ Bảo lãnh tín dụng cần được triển khai hiệu quả và tiếp cận sát nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Đồng thời, nên khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng dịch vụ đến khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa để giảm bất bình đẳng trong tiếp cận vốn. Về phía doanh nghiệp, cần nâng cao tính minh bạch tài chính, thực hiện kiểm toán định kỳ, duy trì lịch sử tín dụng tốt và nâng cao năng lực quản trị. Những yếu tố này không chỉ giúp tăng khả năng vay vốn mà còn tạo dựng uy tín và nền tảng cho phát triển bền vững. Việc hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn không chỉ là nhiệm vụ của hệ thống tài chính, mà còn đòi hỏi nỗ lực cải thiện từ chính bản thân doanh nghiệp để hình thành mối quan hệ tín dụng tin cậy, lâu dài và bền vững giữa các bên.
Tích cực đầu tư đổi mới công nghệ và tăng năng suất lao động. Giải pháp này được xem là yếu tố nội tại mang tính quyết định để doanh nghiệp củng cố vị thế cạnh tranh và mở rộng thị trường. Doanh nghiệp cần chủ động đầu tư tích cực vào đổi mới công nghệ và thực hiện chuyển đổi số (CĐS) toàn diện. Để nâng cao năng suất lao động, cần ưu tiên tự động hóa thông qua việc đầu tư vào máy móc, dây chuyền hiện đại nhằm giảm thời gian và tăng độ chính xác của sản phẩm. Việc ứng dụng các công nghệ số tiên tiến như Trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), và Tự động hóa quy trình bằng Robot (RPA) là cần thiết để tối ưu hóa quản lý sản xuất, kho bãi và bán hàng. Song song với đó, doanh nghiệp phải thiết kế lại quy trình làm việc để loại bỏ các khâu thừa và thủ tục không cần thiết. Cuối cùng, việc đào tạo thường xuyên nhằm nâng cao tay nghề, kỹ năng chuyên môn, kỹ năng số và kỹ năng quản lý là bắt buộc để đảm bảo nguồn nhân lực có đủ năng lực vận hành hiệu quả các hệ thống công nghệ mới.
Tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu đồng thời chú trọng khai thác tối đa thị trường nội địa. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động mở rộng thị trường và giảm phụ thuộc vào một số thị trường lớn để hạn chế rủi ro. Chính phủ cần tích cực hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm đối tác mới, mở rộng kênh tiêu thụ và kết nối thương mại, đẩy mạnh quảng bá thương hiệu, nâng cao chất lượng hàng hóa để đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, giúp hàng Việt Nam có chỗ đứng vững chắc hơn trên thị trường quốc tế. Song song với việc hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần chú trọng hơn tới khai thác tối đa thị trường nội địa. Với quy mô dân số 100 triệu dân, thu nhập ngày càng cải thiện và hệ thống phân phối hiện đại, thị trường nội địa của Việt Nam thực sự là một “mỏ vàng” nếu được khai thác đúng cách. Nếu biết đầu tư đúng hướng, nắm bắt nhu cầu của người tiêu dùng và nâng cao giá trị sáng tạo, doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có khả năng chinh phục thị trường nội địa, biến lợi thế về quy mô dân số và văn hóa tiêu dùng thành động lực phát triển bền vững. Đây cũng là nền tảng quan trọng để các ngành hàng khác noi theo, từng bước xây dựng thương hiệu Việt đủ mạnh, không chỉ phục vụ thị trường trong nước mà còn có thể vươn ra quốc tế.
Bên cạnh nỗ lực của từng doanh nghiệp, sự đồng hành và hỗ trợ từ Chính phủ cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong tiến trình chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo quốc gia. Các cơ quan quản lý và hoạch định chính sách phải ban hành những cơ chế, quy định pháp luật vừa đáp ứng yêu cầu quản lý, vừa khơi thông và huy động hiệu quả các nguồn lực. Chính sách cần hướng đến khuyến khích đổi mới sáng tạo, giải phóng toàn bộ tiềm năng sản xuất của nền kinh tế, đồng thời đảm bảo việc sử dụng và phân bổ nguồn lực theo tư duy kiến tạo phát triển. Đặc biệt, Nhà nước cần xây dựng môi trường thử nghiệm an toàn cho các ý tưởng mới, chẳng hạn như cơ chế sandbox, để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể mạnh dạn thử nghiệm, kiểm chứng và phát triển các sản phẩm công nghệ của riêng mình... Đây chính là nền tảng để khuyến khích tinh thần sáng tạo, tạo động lực cho doanh nghiệp Việt tự tin cạnh tranh và bứt phá.
ThS. Nguyễn Thị Hường
Ban Phát triển Doanh nghiệp và môi trường kinh doanh
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng đầu năm 2025, Cục Thống kê.
2. Diễn đàn VNEF 2025: Doanh nghiệp đề xuất giải pháp tăng cường nội lực, nâng cao vị thế Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.