Việt Nam không chỉ đạt được nhiều thành tích lớn trong giảm nghèo, mà còn là điểm sáng về giảm nghèo trên thế giới, hoàn thành sớm mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc về xóa đói, giảm nghèo; trở thành một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới áp dụng chuẩn nghèo đa chiều hỗ trợ toàn diện cho người nghèo nâng cao chất lượng cuộc sống. Những thành tựu đó cho thấy, công tác giảm nghèo bền vững và bảo đảm an sinh xã hội toàn dân là mục tiêu xuyên suốt, quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển kinh tế - xã hội. Chủ trương này được cụ thể hóa bằng nhiều chính sách cũng như hành động thực tiễn nhằm nâng cao đời sống cho người dân. Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 là một minh chứng quan trọng cho việc hiện thực hóa chủ chương này và đến nay đã đạt được nhiều thành tích nổi bật, tạo sức bật cho người dân vươn lên trong phát triển kinh tế để có cuộc sống ngày càng khấm khá hơn.
Anh Tặng Văn Sinh ở bản Suối Tút, tỉnh Thanh Hoá xung phong thoát nghèo
khi có nguồn thu ổn định từ vườn cam
Dù những ảnh hưởng tiêu cực và hệ quả để lại của dịch Covid -19 là không nhỏ, cũng như những khó khăn, thách thức khác trong phát triển, kết quả giảm nghèo bền vững trong 5 năm 2021 -2025 của Việt Nam đã đạt được những thành tích đáng khích lệ và tiếp tục được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Có được những thành tựu này là do nước ta có được các giải pháp, chính sách giảm nghèo bền vững được triển khai đồng bộ, hiệu quả theo tinh thần "không để ai bị bỏ lại phía sau". Cụ thể là:
- Tỷ lệ nghèo đa chiều chung toàn quốc giảm mạnh: Tổng số hộ nghèo và hộ cận nghèo đa chiều năm 2022 là 1.972.767 hộ, giảm xuống còn 1.258.997 năm 2024 (Giảm 3,46% so với năm 2022 - từ 7,52% năm 2022 xuống còn 4,06% năm 2024).
- Tỷ lệ người nghèo ở mức sống 3,65 USD/ngày (tính theo sức mua tương đương PPP năm 2017) có xu hướng giảm mạnh: từ 2,86% năm 2022 xuống còn 1,98% năm 2024.
- Tỷ lệ người nghèo ở mức sống 2,15 USD/ngày (tính theo sức mua tương đương PPP năm 2017) giảm: từ 0,3% năm 2022 xuống còn 0,22% năm 2024.
Tại nhiều tỉnh, thành phố, đời sống hộ nghèo, hộ cận nghèo, địa bàn “lõi nghèo” có sự cải thiện đáng kể.
Đáng chú ý, kết quả thực hiện xóa đói giảm nghèo ở các vùng dân tộc thiểu số đạt được những thành tựu lớn. Khoảng cách về tỷ lệ nghèo đa chiều giữa dân tộc Kinh, dân tộc Hoa và các dân tộc thiểu số khá lớn nhưng đã được thu hẹp dần dưới tác động của hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật về giảm nghèo được Chính phủ ban hành khá đồng bộ, toàn diện để hỗ trợ người nghèo. Đó là các chính sách giảm nghèo đặc thù, ưu tiên đối với các đối tượng yếu thế, vùng đồng bào dân tộc, vùng đặc biệt khó khăn; từng bước giảm dần và bãi bỏ những chính sách hỗ trợ cho không, tăng chính sách hỗ trợ có điều kiện.
Dự báo tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều năm 2025 sẽ tiếp tục giảm 0,8 - 1%/ năm. Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số dự kiến giảm trên 3% trong năm 2025.
Cùng với giảm nghèo bền vững, Việt Nam tiếp tục chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, các chính sách trợ giúp xã hội được thiết kế hướng vào mục tiêu bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng theo vòng đời từ độ tuổi ấu thơ đến người cao tuổi nhằm phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục các rủi ro của con người trong suốt cuộc đời, từng bước đáp ứng các nhu cầu cơ bản của đối tượng về thu nhập, nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, hướng nghiệp, dạy nghề, đảm bảo tốt hơn các quyền của đối tượng thụ hưởng chính sách.
Việt Nam cũng quan tâm thực hiện tốt chính sách đối với người có công, quan tâm chăm lo, trợ giúp các nhóm dễ bị tổn thương, nhất là người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1 - 1,5%/năm; thu nhập bình quân hộ nghèo năm 2020 tăng 2,3 lần so với năm 2015, đời sống của hộ nghèo và đối tượng bảo trợ xã hội từng bước được cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người tăng trưởng tích cực, năm 2023 đạt hơn 100 triệu đồng (tương đương hơn 4.000 USD), tăng 25% so với năm 2019. Các đối tượng chính sách như người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng kinh tế - xã hội khó khăn, trẻ em dưới 6 tuổi, người trên 80 tuổi… được ngân sách nhà nước hỗ trợ mua bảo hiểm y tế.
Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm đến những đối tượng yếu thế, nhất là người khuyết tật. Đến nay, cả nước có hơn 1 triệu người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng (bao gồm cả nạn nhân bom, mìn, chất độc màu da cam/dioxin) được hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng và cấp thẻ bảo hiểm y tế. Hiện nay, 100% xã, phường trong cả nước đã hoàn thành việc xác định, phân loại, xếp hạng và cấp thẻ cho người khuyết tật.
Mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội được hình thành và phát triển trên phạm vi cả nước với 544 cơ sở trợ giúp xã hội, trong đó có 292 cơ sở công lập và 252 cơ sở ngoài công lập, 73 cơ sở chăm sóc người khuyết tật (bao gồm nạn nhân bom, mìn, chất độc màu da cam/dioxin) và 45 trung tâm công tác xã hội chuyên biệt. Mạng lưới này cung cấp các dịch vụ, phục hồi chức năng, hướng nghiệp dạy nghề và công tác xã hội đối với người khuyết tật.
Việt Nam đã ban hành các chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do dịch Covid -19 như việc ban hành các gói hỗ trợ 62.000 tỷ đồng (năm 2020, tương đương khoảng 2,75 tỷ USD) và 26.000 tỷ đồng (năm 2021, tương đương khoảng 1,15 tỷ USD) dành cho người khó khăn vì dịch Covid - 19 cùng nhiều gói hỗ trợ cho các đối tượng cụ thể khác. Các tổ chức, cá nhân trong xã hội cùng chung tay hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn.
Việt Nam có hơn 2,5 triệu người cao tuổi đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng; 1,2 triệu người cao tuổi hưởng trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng; hơn 1,87 triệu người cao tuổi hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; khoảng 10.000 người cao tuổi đang được nuôi dưỡng, chăm sóc tại các cơ sở trợ giúp xã hội; 95% người cao tuổi được cấp thẻ bảo hiểm y tế; 100% người cao tuổi khi tham gia giao thông công cộng được miễn giảm giá vé. Cơ sở hạ tầng văn hóa, y tế, giao thông công cộng, trung tâm thương mại từng bước bảo đảm các điều kiện tiếp cận cho người cao tuổi.
Đặc biệt, Chính phủ đang đẩy mạnh thực hiện Chương trình phát động xoá bỏ nhà tạm, nhà dột nát. Trong đó, Chính phủ xác định việc hỗ trợ nhà ở cho người có công với cách mạng, xoá nhà tạm nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo là một nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Từ đó Chính phủ triển khai thực hiện Chương trình với tinh thần: "Tư tưởng phải thông, quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, làm việc với tinh thần cao, có trọng tâm trọng điểm, làm việc nào dứt việc đó, phân công rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ kết quả, rõ sản phẩm". Ngoài ra, Chương trình giảm nghèo bền vững còn đầu tư mạnh vào hạ tầng thiết yếu cho vùng nghèo, với hơn 2.600 công trình hạ tầng được xây dựng hoặc cải tạo, như đường giao thông nông thôn, điện, nước sạch, trường học và trạm y tế.
Những thành quả về xóa đói, giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội của Việt Nam trong thời gian qua đã được nhân dân cả nước ghi nhận, cộng đồng quốc tế đánh giá cao, được ví như “một cuộc cách mạng”, làm thay đổi bộ mặt xã hội và đời sống nhân dân từ những vùng xa xôi hẻo lánh nhất. Đây là một trong những thành công nổi bật nhất, thể hiện ý nghĩa nhân văn của Việt Nam trong mục tiêu phát triển bền vững của đất nước và thực hiện công cuộc xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế.
Các kết quả như trên cho thấy hiệu quả thực thi Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn này có nhiều tiến bộ hơn so với giai đoạn trước. Có được điều này là nhờ vào bốn yếu tố chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, đó là cách xác định nghèo, nhờ cách tiếp cận đa chiều và tích hợp về nghèo nên từ đó tìm sinh kế giảm nghèo bền vững phù hợp.
Thứ hai, áp dụng công nghệ số và điều tra hộ nghèo điện tử để minh bạch hóa tiêu chí, đối tượng giảm nghèo.
Thứ ba, giảm sự phụ thuộc vào hỗ trợ tiền mặt đơn thuần, thay vào đó là hỗ trợ có điều kiện, gắn với cam kết vươn lên của người dân.
Thứ tư, các mô hình hỗ trợ sinh kế mang tính dài hạn thực sự đóng vai trò làm giảm mạnh tỷ lệ tái nghèo.
Với những kết quả đó, kỳ vọng đến hết năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo toàn quốc có thể giảm xuống còn dưới 1,5%, vượt chỉ tiêu mà Quốc hội và Chính phủ đặt ra.
ThS. Hoàng Như Quỳnh
Tài liệu tham khảo
1. Báo Nhân dân điện tử, Việt Nam là điểm sáng về giảm nghèo của thế giới.
2. Báo điện tử tiếng nói Việt Nam, Giảm nghèo ở Việt Nam được ví như “một cuộc cách mạng”.
3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2023 và 2024 theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 – 2025.
4. Tạp chí Kinh tế Việt Nam, Sáu giải pháp để đạt tỷ lệ mức giảm nghèo đa chiều.
5. TS. Nguyễn Văn Thuật, Nhìn lại thành tựu giảm nghèo của nước ta và giải pháp trong thời gian tới.