Cuộc CMCN 4.0 đang hiện hữu trên đất nước ta, tác
động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực, mang đến những cơ hội đột phá về năng suất, phát
triển nhân lực công nghệ cao. Thế nhưng chính điều này cũng đã khiến cho hàng
chục nghìn lao động đang đứng trước nguy cơ mất việc làm dù chưa đến tuổi nghỉ
hưu. Nếu không sớm đưa ra các giải pháp thì Việt Nam không chỉ trở nên tụt hậu
mà còn phải đối mặt với gánh nặng chính sách đảm bảo an sinh xã hội cho hàng
chục nghìn lao động trước nguy cơ thất nghiệp. Do vậy, từ tư duy đến hành động
của Chính phủ, doanh nghiệp, tổ chức khoa học và giáo dục, nguồn nhân lực cần
chuyển động theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội mới để xây dựng Việt
Nam trở thành nước công nghiệp hiện đại.
Trong cuộc CMCN lần tư, các công việc truyền thống
sẽ ngày càng mất dần vào tay robot, trí tuệ nhân tạo và các thiết bị thông
minh. Để đáp ứng nhu cầu của cách mạng 4.0, nguồn nhân lực Việt Nam phải sở hữu
những kỹ năng mà máy móc không thể có. Đó là sáng tạo, linh hoạt trong nhận
thức, trí tuệ, cảm xúc, giải quyết tốt công việc. Muốn vậy, tại các cơ sở đào
tạo về lĩnh vực này, việc đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, ứng dụng công
nghệ thông tin và hội nhập quốc tế sâu rộng là vô cùng cần thiết. Điều này giữ
vai trò quan trọng trong việc hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.
Kết quả phần đánh giá
thực trạng khá toàn diện, đặc biệt là phần này đã đưa ra được số người hiện
đang thất nghiệp ở Việt Nam có trình độ khá cao (12,9% có trình độ đại học trở
lên). Bên cạnh đó, Đề tài cũng xác định được tỷ lệ thừa, tỷ lệ thiếu kỹ năng và
tỷ số cung đáp ứng cầu kỹ năng theo giới tính, theo trình độ đào tạo, theo
trình độ chuyên môn kỹ thuật, theo độ tuổi, theo 3 khu vực kinh tế, và theo 18
ngành nghề kinh tế giai đoan 2010-2020. Đây là cơ sở quan trọng cho việc đề
xuất những chính sách khai thác nguồn nhân lực đã qua đào tạo chuyên môn kỹ
thuật hợp lý hơn trong thời gian tới để giảm số thất nghiệp và tăng số có việc
làm của nhóm thanh niên đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật.
Đây là công trình
nghiên cứu nghiêm túc, công phu. Phần tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước khá
tốt, đây là cơ sở để xác định khoảng trống cho nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu,
mục tiêu và nội dung nghiên cứu rõ ràng, phương pháp nghiên cứu phù hợp, đặc
biệt là việc sử dụng các mô hình kinh tế lượng. Đề tài có ý nghĩa thiết thực và
quan trọng là hết sức cần thiết. Kết quả nghiên cứu là cơ sở cho việc xác định
và thực hiện đào tạo nhân lực theo nhu cầu xã hội, giúp các cơ quan hữu quan đưa
ra các giải pháp kết nối cung – cầu lao động có hiệu quả, đặc biệt là trong bối
cảnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế số của nước ta.
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Anh