Thứ
trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho biết, Quy hoạch tổng thể quốc
gia là quy hoạch cấp cao nhất trong hệ thống quy hoạch của Việt Nam. Quy hoạch
tổng thể quốc gia cụ thể hóa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước
giai đoạn 2021-2030, bố trí không gian phát triển quốc gia một cách hợp lý dựa
trên tiềm năng thế mạnh của đất nước để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
nhanh và bền vững.
"Nội
dung Quy hoạch tổng thể quốc gia sẽ định hướng phân vùng và liên kết vùng trên
lãnh thổ quốc gia (bao gồm đất liền, các đảo, quần đảo, vùng biển và vùng trời)
một cách khoa học để tạo không gian phát triển đồng bộ; định hướng phát triển hệ
thống đô thị và nông thôn, hoàn thiện kết cấu hạ tầng đồng bộ, gắn với sử dụng
có hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường, đồng thời chủ động ứng phó với biến
đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế hiệu quả”, Thứ trưởng
cho biết.
Bộ
Kế hoạch và Đầu tư được Chính phủ giao chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa
phương xây dựng Quy hoạch tổng thể quốc gia. Đến nay, dự thảo Báo cáo Quy hoạch
tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã hoàn thành và
đang được lấy ý kiến rộng rãi.
NĂM
2050, XÂY DỰNG ĐƯỢC ÍT NHẤT 5 ĐÔ THỊ ĐẠT TẦM CỠ QUỐC TẾ
Trình
bày tóm tắt dự thảo Báo cáo Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm
nhìn 2050, TS. Trần Hồng Quang, Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển cho biết,
mục tiêu cụ thể được nêu trong dự thảo Quy hoạch là đến năm 2030, sẽ hình thành
một số vùng động lực, có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, tăng trưởng cao,
đóng góp lớn vào ngân sách; hình thành các hành lang kinh tế trọng điểm. Hình
thành một số trung tâm đô thị cấp quốc gia, cấp vùng đạt các chỉ tiêu về y tế,
giáo dục và đào tạo, văn hóa cấp đô thị tương đương mức bình quân của các đô thị
thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN.
Xây
dựng được mạng lưới đô thị thông minh trung tâm cấp quốc gia và cấp vùng kết nối
quốc tế và 3 - 5 đô thị có thương hiệu được công nhận tầm khu vực và quốc tế.
"Các
đô thị đóng vai trò dẫn dắt và tạo hiệu ứng lan tỏa phát triển các vùng phụ cận,
khu vực nông thôn”, ông Quang nói.
Cùng
với đó, sẽ hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, bao gồm các trục
giao thông Bắc - Nam (Quốc lộ 1A và đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, một số
đoạn của đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Tây, một số đoạn của đường sắt tốc độ
cao Bắc - Nam), các trục giao thông Đông - Tây quan trọng, các hành lang kinh tế
trọng điểm các vùng, các cảng cửa ngõ quốc tế kết hợp trung chuyển (Lạch Huyện,
Cái Mép - Thị Vải), các cảng hàng không quốc tế lớn (Long Thành, Nội Bài). Hình
thành hạ tầng số đồng bộ, hiện đại là hạ tầng thiết yếu phục vụ chính phủ số,
kinh tế số, xã hội số.
Đặc
biệt, đến năm 2030, cơ bản đạt các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) về tài
nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Đến
năm 2050, các vùng phát triển hài hoà, bền vững, phát huy tiềm năng, khai thác
tốt nhất các thế mạnh về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí địa chính
trị, nguồn nhân lực, liên kết mạnh mẽ cùng phát triển.
Hệ
thống đô thị liên kết thành mạng lưới đồng bộ, thống nhất, cân đối giữa các
vùng, miền, có khả năng chống chịu, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống
thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ môi trường, kiến trúc tiêu biểu giàu bản sắc,
xanh, hiện đại, thông minh.
Theo
ông Quang, dự thảo Quy hoạch cũng nêu rõ mục tiêu xây dựng được ít nhất 5 đô thị
đạt tầm cỡ quốc tế, giữ vai trò là đầu mối kết nối và phát triển với mạng lưới
khu vực và quốc tế. Hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; hoàn thành xây
dựng đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam (Hà Nội - Cần Thơ), tuyến đường sắt qua Tây
Nguyên, đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía
Tây, các trục Đông - Tây quan trọng, các hành lang kinh tế trọng điểm các vùng,
các cảng cửa ngõ quốc tế kết hợp trung chuyển (Lạch Huyện, Cái Mép - Thị Vải),
các cảng hàng không quốc tế lớn (Long Thành, Nội Bài), hạ tầng giao thông đô thị
và đường vành đai vùng đô thị Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.
Một
mục tiêu rất sát với định hướng mới của Chính phủ hiện nay, đó là đến năm 2050,
môi trường Việt Nam có chất lượng tốt, trong lành và an toàn; xã hội hài hòa với
thiên nhiên, phát triển hiệu quả theo hướng kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh,
cac-bon thấp, hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng "0”.
TS.
Trần Hồng Quang cũng khẳng định, trong khi các nguồn lực phát triển có hạn,
trong một giai đoạn nhất định cần ưu tiên, tập trung đầu tư cho một số lãnh thổ
có điều kiện thuận lợi nhất về vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực
và cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có để các lãnh thổ đó phát triển đi trước một bước,
tạo động lực và làm đầu tàu lôi kéo các lãnh thổ khác cùng phát triển.
"Trong
thời kỳ quy hoạch định hướng tập trung hình thành và phát triển một số hành
lang kinh tế, vùng động lực, các đô thị lớn, các khu kinh tế gắn với bộ khung kết
cấu hạ tầng quốc gia”, ông Quang cho biết.
Theo
Quy hoạch, các đô thị động lực bao gồm Thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Theo
đó, xây dựng Thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế của khu vực phía Bắc và cả nước;
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất của khu vực phía Nam và cả
nước, trở thành trung tâm tài chính quốc tế, trung tâm du lịch, thương mại và dịch
vụ logistics của khu vực; hướng đến là các thành phố kết nối toàn cầu, có sức cạnh
tranh quốc tế.
"Phát
triển hai đô thị trở thành đô thị thông minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, an
ninh, an toàn; trung tâm văn hóa, giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ của
quốc gia, có vai trò tiên phong dẫn dắt đổi mới, sáng tạo”, Viện trưởng Viện
Chiến lược phát triển cho hay.
HÌNH
THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC HÀNH LANG KINH TẾ DỌC THEO TRỤC BẮC - NAM VÀ THEO HƯỚNG
ĐÔNG – TÂY
Về
các hành lang kinh tế, TS. Quang cho biết, Quy hoạch sẽ ưu tiên hình thành các
hành lang kinh tế có các điều kiện thuận lợi sau: (i) Có trục giao thông quan
trọng, thường là đường cao tốc; gắn với các đầu mối giao thương quan trọng như
cảng biển, cửa khẩu quốc tế, sân bay quốc tế...; (ii) Các địa phương trên hành
lang có nhiều tiềm năng, điều kiện thuận lợi phát triển công nghiệp, dịch vụ,
đô thị…; (iii) Ưu tiên các hành lang có khả năng liên kết với các hành lang
kinh tế khu vực và quốc tế. Tập trung hình thành và phát triển các hành lang
kinh tế dọc theo trục Bắc - Nam và theo hướng Đông - Tây.
Ưu
tiên hình thành và phát triển hành lang kinh tế Bắc - Nam trên cơ sở đường cao
tốc Bắc - Nam phía Đông, QL 1A, đường sắt Bắc - Nam, và đường sắt tốc độ cao
trong tương lai, kết nối các đô thị, trung tâm kinh tế, đầu mối giao thương lớn.
Hỗ trợ cho hành lang kinh tế này là dải ven biển phía Đông.
Hình
thành một số đoạn hành lang kinh tế dọc theo đường Hồ Chí Minh và cao tốc Bắc -
Nam phía Tây qua địa bàn Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và
Trung du miền núi phía Bắc.
Đối
với các hành lang kinh tế Đông - Tây, ưu tiên phát triển các hành lang tham gia
các hành lang kinh tế quốc tế trong khu vực, đã được triển khai xây dựng và có
nhiều điều kiện thuận lợi nhất là kết cấu hạ tầng, hệ thống đô thị trên hành
lang.

TS. Trần Hồng Quang,
Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển cho biết, mục tiêu đến năm 2030, sẽ hình
thành một số vùng động lực, có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, tăng trưởng
cao, đóng góp lớn vào ngân sách.
4
VÙNG ĐỘNG LỰC QUỐC GIA
Theo
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện nay cả nước có 4 vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) với
quy mô khá lớn, gồm 24/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chiếm 27,5% diện
tích, 53,1% dân số cả nước. Do quy mô các vùng KTTĐ quá lớn, chưa có cơ chế
chính sách ưu đãi vượt trội, chưa được đầu tư kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại
nên các vùng KTTĐ chưa thực sự trở thành các vùng động lực, nhiều địa phương
thuộc các vùng KTTĐ có trình độ phát triển dưới hoặc tương đương mức trung bình
cả nước.
Để
khắc phục các hạn chế, dự thảo Quy hoạch đưa ra việc xây dựng 4 vùng vùng động
lực quốc gia.
Thứ
nhất là vùng động lực Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Định hướng chung là xây
dựng vùng trở thành trung tâm khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo của quốc
gia. Tập trung hình thành, phát triển mạng lưới trung tâm đổi mới sáng tạo; đi
đầu trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội
số. Phát triển một số ngành dịch vụ hiện đại, chất lượng cao. Thu hút đầu tư
các ngành công nghiệp chế tạo tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu. Phát triển
thành trung tâm kinh tế biển với các ngành vận tải biển, du lịch biển đảo, kinh
tế hàng hải và các ngành kinh tế biển mới. Mở rộng phát triển nông nghiệp công
nghệ cao, nông nghiệp sạch. Đẩy mạnh đô thị hoá gắn với phát triển đồng bộ hệ
thống hạ tầng và nâng cao hiệu quả kinh tế đô thị, kết nối đô thị.
Thứ
hai là vùng động lực TP. Hồ Chí Minh - Bình Dương - Đồng Nai - Bà Rịa-Vũng Tàu.
Vùng này sẽ tập trung phát triển mạnh khoa học, công nghệ và hệ sinh thái đổi mới
sáng tạo, đi đầu trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng, xây dựng kinh tế số, xã
hội số. Phát triển mạnh các dịch vụ tài chính, ngân hàng, khoa học công nghệ,
logistics, kinh doanh bất động sản. Thúc đẩy phát triển Thành phố Hồ Chí Minh
trở thành trung tâm tài chính quốc tế. Thu hút đầu tư sản xuất các sản phẩm điện,
điện tử, công nghiệp chế biến, chế tạo; phát triển các công viên phần mềm, trí
tuệ nhân tạo. Phát triển kinh tế biển như dịch vụ logistics, khai thác chế biến
dầu khí, du lịch biển. Tập trung phát triển cảng biển container Cái Mép - Thị Vải
thực sự trở thành cảng trung chuyển quốc tế.
Thứ
ba là vùng động lực Đà Nẵng - Quảng Nam - Quảng Ngãi. Theo đó, tiếp tục hình
thành, phát triển hệ thống đô thị ven biển, các trung tâm du lịch biển, du lịch
sinh thái mang tầm khu vực và quốc tế. Trung tâm công nghiệp lọc hóa dầu quốc
gia, công nghiệp ô tô - phụ trợ ngành cơ khí. Phát triển các cảng biển và dịch
vụ cảng biển, hạ tầng và các trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá.
Thứ
tư là vùng động lực Cần Thơ - An Giang - Kiên Giang. Vùng này sẽ là trung tâm
công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm quốc gia, công nghiệp phục vụ nông
nghiệp. Phát triển kinh tế biển, tập trung xây dựng phát triển Phú Quốc thành
trung tâm dịch vụ, du lịch sinh thái biển mạnh mang tầm quốc tế; kết nối với
các trung tâm kinh tế lớn trong khu vực và thế giới. Trung tâm khoa học công
nghệ về nông nghiệp quốc gia và các dịch vụ phục vụ nông nghiệp.
Ngoài
ra, Dự thảo Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm
2050 cũng nêu rõ, tổ chức không gian biển, phát triển kinh tế biển gắn với bảo
vệ chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia, tạo mối liên kết kinh tế chặt chẽ giữa
khu vực đất liền với không gian biển và liên kết phát triển với các nước trong
khu vực. Phát triển đột phá các ngành kinh tế biển, nhất là các ngành du lịch,
dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản
biển khác, nuôi trồng và khai thác hải sản, công nghiệp ven biển, năng lượng
tái tạo và các ngành kinh tế biển mới.
THẬT
KHÓ ĐỂ ĐƯA MỌI THỨ VÀO QUY HOẠCH!
Bà
Carolyn Turk, Giám đốc quốc gia WB tại Việt Nam cho biết, thật khó để đưa mọi
thứ vào quy hoạch này, vấn đề là cần dành không gian đáp ứng các thích ứng mới
mà chúng ta chưa lường tới được.
Bà
Carolyn Turk nhấn mạnh, bản quy hoạch tổng thể không gian hiệu quả cần phản ánh
được tầm nhìn phát triển của các cơ quan chức năng đối với tương lai của đất nước.
Do đó, bản quy hoạch tổng thể phải dựa trên các phương pháp luận rõ ràng, căn cứ
phân tích vững chắc và phải đặt ra các mục tiêu phát triển rõ ràng và ưu tiên.
"Chúng
tôi hiểu rằng không hề dễ dàng để có thể cân bằng giữa đa dạng mục tiêu phát
triển, đặc biệt là khi cân nhắc giữa tính hiệu quả và sự công bằng", bà
chia sẻ quan điểm của WB.
Theo
bà Carolyn Turk, để thành công, bản quy hoạch tổng thể cũng cần phải trình bày
rõ ràng cách thức dự tính để đạt được các mục tiêu phát triển không gian. Nói
cách khác, quy hoạch tổng thể không chỉ được xây dựng tốt mà còn cần phải khả
thi và hiệu quả.
Còn
TS. Danny Leipzinger, Chuyên gia của Ngân hàng Thế giới lại lưu ý tới các bất định
ngày càng tăng lên khi xây dựng các bản quy hoạch từ năm 2030 trở đi. Ông cho rằng,
những bất định này hàm ý là chi phí thâm dụng mới cần được cân nhắc kỹ hơn.
"Tính
bất định đòi hỏi chúng ta phải đánh giá, điều chỉnh, cân nhắc lại các yếu tố
trong nước và toàn cầu", ông nói và lưu ý các kinh nghiệm của Hàn Quốc
trong xây dựng quy hoạch.
Về
quan điểm xây dựng các vùng đô thị mới, vị chuyên gia đến từ WB cho rằng, cách
tiếp cận kết nối giữa đại đô thị với đô thị nhỏ là hợp lý. "Nếu xây dựng
các đô thị mới thì rất tốn kém, ngay cả Trung Quốc có nhiều tài nguyên hơn Việt
Nam, cũng không thành công khi xây dựng các đô thị mới", ông dẫn chứng.
Bà
Phạm Thị Nhâm- Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn quốc gia (Bộ
Xây dựng) thì góp ý rằng, việc đưa quá nhiều vùng đông lực, hành lang kinh tế
quá nhiều sẽ dẫn tới sự khó khăn trong việc phân bố nguồn lực. Bà cũng lưu ý rằng,
chúng ta đang thiếu mô hình quản lý vùng đô thị.
"Có
vùng đô thị không, nếu có thì quy hoạch thế nào? Hiên nay Luật quy hoạch không
có quy định về vùng đô thị, như vậy thiếu hàng lang phát triển", bà Nhâm
nêu vấn đề.
Còn
đại diện của Mckinsey thì cho rằng, cần tập trung vào các giải pháp định hướng
để đạt được mục tiêu đặt ra. Vị này lưu ý về việc cập nhật vào Dự thảo Quy hoạch
một số xu hướng ảnh hưởng tới nền kinh tế Việt Nam trong tương lai, như: phát
triển bền vững, chuyển dịch nền kinh tế, quan tâm tới chiến lược kinh tế 4.0,
tăng cường kết nối giữa các địa phương để xử lý các vấn đề liên quan tới khu
kinh tế.

Bà Carolyn Turk, Giám
đốc quốc gia WB tại Việt Nam
Góp
ý về định hướng phát triển hệ thống đô thị trong dự thảo Quy hoạch, TS. Phó Đức
Tùng, Chuyên gia của WB cho rằng, quy hoạch hệ thống đô thị quốc gia cần có định
hướng về những xu thế phát triển và dịch chuyển không gian lớn cấp quốc gia của
hệ thống đô thị, để có những giải pháp định hướng, chứ không chỉ là những phát
triển tự phát.
"Hệ
thống hạ tầng mang tính định hướng quốc gia gồm những hạ tầng chiến lược nhằm
hướng tới thực hiện hoá định hướng quy hoạch và tăng cường hiệu quả của hệ thống
đô thị cần phải được thực hiện trước, để dẫn dắt phát triển đô thị chứ không phải
chỉ là đi sau để phục vụ cho những đô thị hiện hữu", TS. Tùng đề xuất.
Theo
ông Tùng, phát triển 2 vùng đô thị trọng điểm là vùng Đồng bằng sông Hồng, với
trục Hà Nội - Hải Phòng là lõi trung tâm, mở rộng trên toàn bộ phạm vi các tỉnh
đồng bằng, ven biển và trung du Bắc Bộ, với quy mô dân cư lên tới khoảng 30 triệu
dân, chiếm tỷ trọng khoảng 30% GDP và vùng đô thị trọng điểm Nam Bộ, với trục
TP. Hồ Chí Minh - Vũng Tàu làm lõi trung tâm, mở rộng 2 cánh ra miền Đông, Nam
Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long, với quy mô dân số khoảng 50 triệu dân, tỷ
trọng kinh tế khoảng 50% GDP. Mỗi vùng có một đô thị đặc biệt làm trung tâm, với
sức hút lớn và một của biển trọng yếu cấp quốc tế.
Vị
chuyên gia này lưu ý, điều cốt yếu trong việc phát triển 2 vùng này là chú trọng
phát triển cảng nước sâu với đầy đủ hệ thống hạ tầng hậu cảng tại cửa biển và cảng
hàng không quốc tế tầm cỡ lớn tại đô thị trung tâm để tăng nội lực của trục
trung tâm. Đồng thời, tạo kết nối giao thông chiến lược nội vùng, quan trọng nhất
là hệ thống đường sắt đô thị, tiếp theo là các đường cao tốc, đường thủy huyết
mạch, kết nối giữa các đô thị chính trong vùng với trục trung tâm để phát huy tối
đa hiệu quả lan tỏa từ trục trung tâm tới các vùng đô thị vệ tinh.
"Nếu
không tăng cường được các kết nối và hợp tác nội vùng, để phát triển tự phát sẽ
xảy ra 2 xu hướng chính đối với hai vùng động lực chính: Một mặt, dân cư sẽ tập
trung đông vào lõi trung tâm Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, do sức hút trọng trường
của hai tâm này, dẫn tới quá tải tại 2 vùng lõi mà không lan rộng được ra xung
quanh. Mặc khác, 2 hành lang kinh tế lớn là Mộc Bài - Bà Rịa Vũng Tàu và hành
lang Lào Cai - Hải Phòng - Quảng Ninh sẽ tự kết nối, chạy trượt ra bên ngoài 2
cực, mà không tạo ra hiệu ứng tích hợp giữa đô thị trung tâm và dải hành lang
kinh tế", TS. Tùng cảnh báo và nêu kịch bản.
Trong
phần kết luận hội thảo, nhấn mạnh ở góc độ năng suất lao động, , Giám đốc quốc
gia WB tại Việt Nam chỉ rõ, một trong những thách thức của Việt Nam là năng suất
lao động. "Đây là thời điểm quan trọng để tư duy lại để có tư duy về không
gian, tư duy về quy mô đầu tư công, đầu tư tư nhân để mang lại năng suất cao
hơn, giúp địa phương xác định hướng đầu tư 20 năm tới", bà gợi ý, Việt Nam
nên suy nghĩ về một số thách thức phát triển bức thiết ở cấp độ quốc gia, quy
mô quốc gia, ví dụ như tài nguyên nước, quản lý rác thải... để đầu tư ở cấp độ,
quy mô tương xứng.
Bà
Carolyn Turk cho rằng, trong thời gian tới, Việt nam cần hoàn thiện để bản quy
hoạch thúc đẩy nâng cao năng suất lao động, để có được những hoạt động đầu tư
đúng quy mô, để phát triển Việt Nam trong 2 thập kỷ tới.
"Việt
Nam có rất nhiều phương án để huy động vốn cho dự án đầu tư, nhưng câu hỏi là,
làm sao có cơ chế để tập trung vốn cho 10-20 tỉnh, tạo cơ chế để triển khai
trong hệ thống", bà Turk nói./.
Theo Phương Anh
Tạp chí Kinh tế và Dự báo